Kịch bản phim tài liệu

1, Khái niệm

Cho tới nay, trên thế giới có rất nhiều quan niệm về phim tài liệu. Tuỳ theo góc độ nghiên cứu khác nhau của các tác giả sẽ có những quan niệm riêng về thể loại này. Tuy còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, nhưng phần lớn vẫn tập trung vào hai khuynh hướng.
Khuynh hướng thứ nhất, đề cao tính chân thực của phim tài liệu truyền hình, coi tính chân thực là đặc tính chi phối toàn bộ tác phẩm phim tài liệu truyền hình. Hầu như báo chí phương Tây chủ yếu theo khuynh hướng này.
Khuynh hướng thứ hai, đề cao tính nghệ thuật của phim tài liệu truyền trình lẫn tính báo chí của nó. Phim tài liệu là một thể loại của điện ảnh, không những thế mà còn là thể loại đầu tiên xuất hiện khi điện ảnh ra đời. Nó mang trong mình những đặc điểm nghệ thuật của điện ảnh. Khi được sử dụng trên truyền hình, phim tài liệu truyền hình làm nhiệm vụ của một thể loại báo chí được biến đổi để phù hợp với đặc trưng của loại hình truyền thông đại chúng. Phim tài liệu truyền hình chuyển tải những sự kiện, hiện tượng nóng bỏng của cuộc sống thông qua những thủ pháp nghệ thuật. Vì vậy, phim tài liệu truyền hình thể hiện rõ nét tính chính luận và tính thời sự của báo chí.
Từ điển bách khoa toàn thư Encarta (ở mục từ docmumentaries) của Mỹ cho rằng: Phim tài liệu truyền hình là những tác phẩm truyền hình có cấu trúc chặt chẽ nhằm mục đích khám phá sự kiện, hiện tượng, con người trong đời sống hiện thực một cách chi tiết. Phim tài liệu theo quan điểm này liên quan chặt chẽ với mọi mặt của đời sống xã hội, từ lịch sử, văn hoá, chính trị cho tới thế giới tự nhiên. Phim tài liệu truyền hình tạo điều kiện tốt chưa từng có giúp con người giải phóng tầm mắt, đi khắp ngóc ngách mọi châu lục, dưới đáy đại dương, chiêm ngưỡng cả thế giới vi mô, đóng góp lớn trong sự nghiệp nâng cao dân trí và đấu tranh xã hội.
Như vậy, Từ điển bách khoa toàn thư Encarta đề cao tính chi tiết của tác phẩm, coi chi tiết như tiêu chí duy nhất của một phim tài liệu truyền hình. Đó đơn thuần là một tác phẩm truyền hình có cấu trúc được xây dựng kỹ lưỡng và chi tiết. Với quan điểm này, Encarta coi phim tài liệu chính luận báo chí mà quên đi tính nghệ thuật của thể loại này.
Trong cuốn sách mang tên “Nghệ thuật điện ảnh: một giới thiệu đại cương”, hai tác giả David Bordwell và Kristin Thompson, thuộc Trường đại học Wisconsin, định nghĩa: Phim tài liệu là một tác phẩm chứa đựng trong nội dung của nó những thông tin chân thực về thế giới bên ngoài. Định nghĩa này của Bordwell và Thompson cũng nhấn mạnh vào tính chân thực của phim tài liệu truyền hình như Từ điển bách khoa toàn thư Encarta. Tính chân thực được hai tác giả coi như đặc tính quan trọng nhất, quy định những đặc tính khác của phim tài liệu. Tất cả những sự kiện, hiện tượng, quá trình con người trong hiện thực đều là đối tượng phản ánh của phim tài liệu truyền hình .
Nó dùng sự chân thực để thuyết phục người xem thừa nhận sự tồn tại của những sự vật đó.
Phim tài liệu có thể đưa ra một cách nhìn, một chính kiến và cách giải quyết vấn đề của người làm phim. Tuy nhiên, phim tài liệu của Bordwell và Thompson không tránh khỏi bị rơi vào tự nhiên chủ nghĩa. Nhà làm phim tài liệu đưa ra hệ thống luận chứng, luận cứ để chứng minh cho luận điểm mà họ nêu lên trong tác phẩm của mình. Và chính hệ thống luận chứng đó sẽ thuyết phục người xem về tính chân thực của tác phẩm tài liệu truyền hình,
Hai tác giả cuốn “Nghệ thuật điện ảnh: một giới thiệu đại cương”, chia thể loại phim tài liệu một số dạng như sau:
-Phim tài liệu dựng lại trên cơ sở những nguồn tư liệu lưu trữ (compilation documentary). Đó là những phim gồm toàn hình ảnh tư liệu được ghép nối lại với nhau nhằm chuyển tải ý đồ của tác giả. Phim dạng này thường là những phim về đề tài lịch sử .
-Phim tài liệu phỏng vấn (interview documentary). Trong dạng phim này, các nhà làm phim ghi nhận một cách trung thực về sự kiện, hiện tượng, về những biến động xã hội chủ yếu qua lời kể của các nhân chứng.
-Phim tài liệu của sự thực (cinema- verite documentary) là dạng phim tài liệu trong đó các nhà làm phim ghi lại sự kiện như nó diễn ra trên thực tế, không mang dấu ấn chủ quan của tác giả. Dạng phim này bắt đầu xuất hiện từ khoảng những năm 50,60 của thế kỷ 20 khi các loại camera gọn nhẹ ra đời, cho phép người quay phim cơ động nhanh, theo kịp diễn biến của sự kiện.
Trong cuốn sách nghiên cứu điện ảnh đại cương, Andrew Britton cho rằng: “Trước hết, một bộ phim tài liệu có giá trị phải phản ánh được những góc cạnh khác nhau của sự thực, một sự thực không đơn giản như chúng ta nhìn thấy mà là một sự thực được đặt trong bối cảnh lịch sử, xã hội đã tạo ra chúng”. Quan niệm này của Andrew Britton đã thoát khỏi được tính tự nhiên chủ nghĩa mà nhiều nhà làm phim tài liệu phương Tây mắc phải. Sự thực trong phim tài liệu phải được đặt trong bối cảnh đã sinh ra nó, nằm trong mối quan hệ biện chứng với những sự kiện, hiện tượng khác.
Bản thân sự kiện chỉ là nguyên liệu cho một bộ phim tài liệu chứ sự kiện không bao hàm trong nó một phim tài liệu. Bằng những thủ pháp làm phim đạo diễn tìm kiếm, lựa chọn những chi tiết đắt giá nhất, phục vụ tốt nhất tư tưởng chủ đề của mình để xây dựng tác phẩm tài liệu.
Phát triển quan điểm của Britton, nhiều nhà làm phim cho rằng phim tài liệu là một thể loại của truyền thống điện ảnh, trong đó giải quyết sự kiện một cách sáng tạo trên cơ sở sự việc, sự kiện, con người có thật. Quan điểm này chia phim tài liệu thành các dạng sau:
-Phim thời sự tài liệu
-Phim tài liệu địa chí
-Phim tài liệu giáo khoa
-Phim tài liệu phân tích
Trên đây là một số quan điểm khác nhau về phim tài liệu thuộc khuynh hướng thứ nhất, coi tính chân thực là đặc tính quan trọng nhất,chi phối những đặc tính khác của thể loại này. Tuy nhiên cho dù tính chân thực là điểm chủ chốt, là đặc tính quan trọng nhất nhưng phim tài liệu không đơn thuần phản ánh sự kiện như nó diễn ra một cách tự nhiên. Phim tài liệu thông qua những sự kiện, hiện tượng, con người có thực để nói lên tư tưởng chủ đề.
Những sự kiện, hiện tượng, con người đó là nguyên liệu cho nhà làm phim xây dựng hình tượng trong tác phẩm của mình.
Việc xây dựng hình tượng là thao tác không thể thiếu của một tác phẩm nghệ thuật. Phim tài liệu truyền hình trước hết là một thể loại của nghệ thuật điện ảnh. Nó mang trong mình đầy đủ những đặc tính của nghệ thuật thứ bảy. Cả phim truyện và phim tài liệu đều phản ánh thế giới hiện thực thông qua việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Phim truyện dùng diễn xuất của diễn viên trong những bối cảnh được dàn dựng theo chủ quan của đạo diễn để nói lên tư tưởng của tác phẩm. Còn trong phim tài liệu không có diễn xuất của diễn viên mà nó nói lên chủ đề tư tưởng thông qua những sự kiện, hiện tượng, những quá trình, những con người có thật trong đời sống. Nói cách khác, phim truyện là nghệ thuật chủ quan còn phim tài liệu là nghệ thuật khách quan.
Với những lợi thế vượt trội của mình, không lâu sau khi ra đời, truyền hình đã được xem là phương tiện chiếm ưu thế tuyệt đối và ngày càng tiến dần tới vai trò quan trọng trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng. Với những ưu thế về loại hình và những điều kiện hết sức thuận lợi trong thời đại khoa học- công nghệ hiện nay, truyền hình đã phát huy được thế mạnh của mình trong quá trình trao đổi thông tin. Một trong những ưu điểm vượt trội của truyền hình là ngoài khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời như các loại hình báo chí khác, loại hình truyền thông này tác động tới tư tưởng và tình cảm của công chúng một cách mạnh mẽ nhờ sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh mà chưa một loại hình truyền thông nào sánh kịp.
Trong quá trình phát triển với tư cách là một loại hình báo chí, truyền hình liên tục làm giàu hệ thống thể loại của mình bằng cách tiếp nhận nhiều thể loại của các loại hình khác. Trong số đó có phim tài liệu. Nhưng sự xuất hiện của phim tài liệu truyền hình là sự hợp tác hai chiều. Truyền hình tìm thấy những khả năng to lớn của phim tài liệu trong việc định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, những nhà làm phim tài liệu tìm thấy ở truyền hình những điều kiện đảm bảo cho phim tài liệu phát huy được hết khả năng của mình.
Phim tài liệu truyền hình khác với người anh em của nó, phim tài liệu điện ảnh, ở chỗ nó là một thể loại trong hệ thống thể loại báo chí truyền hình. Có nghĩa là nó chịu sự chi phối của những đặc tính của báo chí. Trong đó, đặc tính quan trọng nhất là tính thời sự. Tính thời sự trong phim tài liệu truyền hình là một yêu cầu không thể thiếu.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về phim tài liệu truyền hình: phim tài liệu truyền hình là một thể loại báo chí truyền hình nằm trong nhóm thể loại chính luận nghệ thuật. Nó nói lên tư tưởng chủ đề, tức là tính chính luận của báo chí, thông qua việc xây dựng hình tượng từ những sự kiện, hiện tượng, con người cụ thể có thật trong đời sống xã hội. Nói cách khác, phim tài liệu truyền hình dùng sự thật để xây dựng hình tượng nghệ thuật, qua đó làm nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ và định hướng cách nhận thức sự thật đó cho công chúng. 

2, Sự ra đời và phát triển của phim tài liệu 
Từ những phát minh sáng chế của Êđixơn, Tagiê, anh em nhà Luymier, Anbertini, Đrancôp… đến những mét phim đầu tiên và phim “hiện thực”- sự mở đầu của nhóm thể loại phim thời sự – tài liệu, đồng thời cũng là sự mở đầu cho sự xuất hiện nền điện ảnh nhân loại.
Những thước phim tài liệu đầu tiên là của anh em nhà Luymier (Pháp) xây dựng và trình chiếu ở nơi công cộng với Tầu vào gavà Giờ tan tầm ở nhà máy. Tiếp theo đến bộ phim tài liệu của Fláecti (Mỹ) về những người dân Exkimô; Mêliex và bộ phim Vụ án Đrâyphuyx ….
Nước Nga Xô Viết và những mét phim tài liệu đầu tiên của Đrancôp và Dziga Vertốp,…
Đây là nhóm thể loại phim ra đời sớm nhất của điện ảnh, với đặc điểm ghi lại hình ảnh người thật việc thật đã hoặc đang tồn tại trong cuộc sống.
Hiện nay, hầu hết các nước đều có xưởng phim làm phim tài liệu tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó những phim về hai cuộc chiến tranh thế giới, các cuộc đấu tranh cách mạng và giải phóng dân tộc, đã làm nhiệm vụ thông tin kịp thời, động viên hàng trăm triệu người đấu tranh cho hoà bình, tiến bộ xã hội, dân chủ, tự do, độc lập dân tộc. Phim tài liệu tạo điều kiện tốt chưa từng thấy giúp con người giải phóng tầm mắt, đi khắp mọi ngóc ngách trên các châu lục, xuống đáy đại dương hay vào vũ trụ, chiêm ngưỡng đến cả thế giới vi mô, đóng góp lớn trong nâng cao dân trí và đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội.
Ở Việt Nam, những phim thời sự – tài liệu ra đời trước Cách mạng tháng Tám đều do người nước ngoài quay. Những thước phim tài liệu đầu tiên về Cách mạng hiện nay còn giữ được là những hình ảnh về ngày độc lập 2/9/1945, về cuộc mittinh khổng lồ tại vườn hoa Ba Đình, những đoạn phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, những đoạn phim về Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Phạm Văn Đồng sang Pháp dự hội nghị Fôngtenơblô (Fontainebleau; 1946). Từ những ngày đầu Kháng chiến chống thực dân Pháp, các nhà quay phim tài liệu đã lăn lộn trên các chiến trường ghi lại hình ảnh chiến đấu của quân và dân ta tại nhiều nơi (chiến khu 7, 8, 9 Nam Bộ; chiến khu Việt Bắc). “Trận Mộc Hoá”, “Chiến dịch Cao Bắc Lạng” (1948), “Chiến dịch La Ban- Cầu kè” (1950), “Trận Đông Khê” (1950), “Chiến thắng Tây Bắc” (1952), “Giữ làng giữ nước” và đặc biệt là phim “Chiến thắng Điện Biên Phủ” (cùng làm năm 1954). Từ sau ngày 19/3/1953 (ngày Hồ Chủ Tịch ký Sắc lệnh thành lập ngành Điện ảnh Việt Nam), phim tài liệu Việt Nam có nhiều chuyển biến, đặc biệt trong thời kỳ chống Mỹ đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Có nhiều phim tiêu biểu: “Nước về Bắc Hưng Hải”(1959), “Đầu sóng ngọn gió” (1967), “Lũy thép Vĩnh Linh” (1970), “Tiếng trống trường” (phim tài liệu vô tuyến truyền hình, 1973), “Mở đường Trường Sơn” (1973 –1974), “ Thành phố lúc rạng đông” (1975), “Đường dây lên sông Đà”. Những thước phim tài liệu phản ánh trực tiếp cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân miền Nam như: “Du kích Củ Chi” (1967), “Đường ra phía trước” (1969), “Những người dân quê tôi” (1970), “Những người săn thú trên núi Đắksao” (1970), “Làng nhỏ ven sông Trà” (1971).
Những thước phim tài liệu ghi được về cuộc đời hoạt độngcủa Chủ tịch Hồ Chí Minh, về sinh hoạt của Bác Hồ ở Việt Bắc, “Hình ảnh về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” (1960), “Tiếng gọi mùa xuân’ (1968), “Bác Hồ của chúng em” (1969), “Bác Hồ sống mãi” (1970), “Mùa sen nhớ Bác” (1969), “Chúng em còn nhớ Bác” (1970), “Con đường mang tên Bác”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh” (1975),…
Trong thời ký chiến tranh, một số nghệ sĩ điện ảnh nước ngoài như Xương Hạc Linh (Chang Heling), Kacmen (R.L.Karmen) đã sang Việt Nam cùng chúng ta chịu đựng cảnh bom đạn, gian khổ, vất vả để làm nên các phim: “Việt Nam kháng chiến” (Trung Quốc, 1951- 1952), “Việt Nam trên đường thắng lợi” (Liên Xô, 1954-1955) hoặc phản ánh những ngày đầu thắng Pháp, Việt Nam đang xây dựng, phục hồi kinh tế: “Cây tre Việt Nam” (Ba Lan, 1955), “Rừng già Việt Nam” (1975), “Trên những dòng sông Việt Nam” và “Chợ miền xuôi” (1959) của điện ảnh Tiệp Khắc, “Việt Nam Tổ quốc tôi” (Liên Xô, 1960), “Bông sen nở tự do” (Bungari, 1960),…
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ phim tài liệu Việt Nam đã phát triển mạnh cả hai miền Nam – Bắc, phản ánh được thực tế chiến đấu, sản xuất ở chiến trường lớn và hậu phương lớn góp phần vào thắng lợi vẻ vang ngày 30/4/1975. Sau khi đất nước thống nhất, phim tài liệu chuyển dần sang chương trình phim tài liệu của đài truyền hình, đi vào những phóng sự, tường thuật dài hơn phản ảnh những sự việc, sự kiện xảy ra hàng ngày trong nước và thế giới. Tính từ 1954 đến 1983 phim tài liệu Việt Nam nói chung đã dành được 46 giải Bông sen vàng, 71 Bông sen bạc trong các liên hoan phim quốc gia, 15 Huy chương vàng, 7 Huy chương bạc trong các liên hoan phim quốc tế. Những phim tài liệu truyền hình có giá trị tư liệu và lịch sử quý báu, góp phần vào xây dựng hàng trăm phim tài liệu có giá trị của điện ảnh Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, phim tài liệu truyền hình trở thành món ăn tinh thần hàng ngày không thể thiếu được của đại chúng, đóng góp đắc lực vào sự nghiệp nâng cao dân trí và đấu tranh tư tưởng.

Xem thêm :  Văn mẫu 8 cảm nhận về nhân vật chị dậu trong đoạn trích tức nước vỡ bờ

3, Chức năng của phim tài liệu truyền hình.
3.1. Chức năng thông tấn và báo chí.
Chức năng quan trọng nhất, chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo phim tài liệu truyền hình,dẫn tới quan niệm phim tài liệu truyền hình là một thể loại tác phẩm báo chí truyền hình.
Tính thời sự trong phim tài liệu truyền hình thể hiện qua việc phản ánh sự kiện, vấn đề, nhân vật… hằng ngày với những thông tin nóng hổi, kịp thời, xác thực. Yếu tố chính trị, phục vụ kịp thời mục đích tuyên truyền (các sự kiện chính trị nổi bật, những ngày lễ lớn , các dịp kỷ niệm..)

3.2, Chức năng giáo dục và nhận thức
Nâng cao nhận thức và tư duy của người xem, thông qua những hình ảnh có thật về con người, đất nước, thiên nhiên, sự kiện, sự việc, với tất cả sự phong phú đa dạng của nó.
Phát hiện bản chất có ý nghĩa triết học của hiện tượng và sự kiện, nâng sự kiện lên tầm khái quát hoá bằng hình tượng tiêu biểu, qua việc sử dụng một cách có hiệu quả các thủ pháp nghệ thuật ( điều mà các thể loại tác phảm báo chí truyền hình khác khó có thể thực hiện được do đặc điểm thể loại,độ dài thời gian (thời lượng) và mục đích thông tin).
Nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của hiện tượng và sự kiện qua việc sử dụng các chi tiết điển hình, kết hợp với âm nhạc, tiếng động, lời bình, các thủ pháp dựng phim..

3.3. Chức năng thẩm mỹ và giá trị tư liệu lịch sử
Hiện tượng thẩm mỹvà chất thơ; yếu tố ẩn dụ, tượng trưng… trong các loại phim tài liệu nghệ thuật, phong cảnh, du lịch…
Giá trị tư liệu lịch sử của phim tài liệu truyền hình nói riêng cũng như phim tài liệu nói chung, đặc biệt đối với các sự kiện, sự việc chỉ xảy ra một lần hoặc những sự kiện, sự việc, con người… thuộc về lịch sử, với những hình ảnh không gì hay tái tạo được.

4, Điểm khác nhau giữa phim tài liệu truyền hình và phim tài liệu điện ảnh
Như phần trên chúng tôi đã phân tích, phim tài liệu truyền hình được thừa hưởng rất nhiều đặc điểm của phim tài liệu điện ảnh. Nó chính là một thứ phim tài liệu điện ảnh được cải biến đi cho phù hợp với những đặc tính kỹ thuật và đặc điểm tiếp nhận của truyền hình để sử dụng trên loại hình báo chí này. Những thay đổi đó tạo nên sự khác biệt căn bản giữa phim tài liệu của hai loại hình truyền thông – điện ảnh và truyền hình.

4.1 Về công chúng
Trạng thái tiếp nhận của điện ảnh và truyền hình rất khác nhau. Công chúng tiếp nhận tác phẩm điện ảnh ở một điều kiện lý tưởng cho việc tiếp thu nội dung tác phẩm. Còn truyền hình phải đối mặt với rất nhiều trở ngại của cuộc sống hàng ngày, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan, đến quá trình tiếp nhận của người xem.
Công chúng tiếp nhận tác phẩm điện ảnh trong không gian rạp chiếu. Đó là một khoảng không gian riêng biệt người xem ngồi trong bóng tối gần như hoàn toàn, trong những hàng ghế đối diện với một màn ảnh lớn. Trên đó chiếu những hình ảnh ngoại cỡ, không thể thấy trong cuộc sống thường nhật. Cùng với nó là những chuỗi âm thanh với âm lượng lớn.
Người xem của điện ảnh là một thành viên trong một lượng công chúng nhỏ, chỉ khoảng vài trăm người. Đó là một môi trường lý tưởng cho tiếp nhận một tác phẩm nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật điện ảnh đi thẳng vào trực giác người xem, dễ đem lại những cảm xúc mạnh mẽ, kể cả tiếng khóc tiếng cười đột khởi. Chính vì khả năng gây cảm xúc mạnh mẽ của điện ảnh cùng với môi trường tiếp nhận nhỏ hẹp, chỉ khoảng vài trăm người, nên những hình ảnh trên phim gây được “phản ứng dây chuyền” trong cảm xúc của khán giả. Những cảm xúc do điện ảnh gây ra lan nhanh trong không gian rạp chiếu, tạo nên sự cộng hưởng về mặt tình cảm. Vì vậy, người xem càng bị tác động mạnh bởi hình ảnh, lời thoại tiếng động âm nhạc của bộ phim hơn, khả năng tiếp nhận của khán giả trở nên cao hơn. Và tác phẩm điện ảnh do đó được tiếp nhận đầy đủ hơn.
Hơn nữa, khi xem một tác phẩm điện ảnh, người xem bị tách rời ra khỏi bối cảnh sống hàng ngày, không bị chi phối bởi bất cứ tác động nào của ngoài cảnh,hoàn toàn chú ý tiếp thu tác phẩm. Nội dung tác phẩm điện ảnh được người xem tiếp thu khá trọn vẹn. Xuất phát từ đặc điểm tiếp nhận này nên tác phẩm điện ảnh có thể được dồn nén đến cao độ các chi tiết mà không sợ người xem khó hiểu. Tuy nhiên,khả năng tập trung cao độ của người xem không thể duy trì lâu. Đồng thời, khi đang xem dở một buổi chiếu,khán giả không thể ngừng xem nếu muốn tiếp thu trọn vẹn tác phẩm. Vì hai lý do nêu trên, mỗi tác phẩm điện ảnh không nên kéo dài hơn 90 phút, tối đa là 100 phút để khán giả có thể hiểu được toàn bộ tác phẩm. Với những tác phẩm đồ sộ, đòi hỏi thời lượng lớn thì nên tách ra thành nhiều phần, mỗi phần khoảng 90 đến 100 phút. Mỗi đêm chiếu một phần cho tới khi hết bộ phim.
Một đặc điểm nữa có tác động khá lớn đến quá trình tiếp nhận tác phẩm điện ảnh là việc người xem được phép lựa chọn tác phẩm mình thích. Công chúng thưởng thức điện ảnh là công chúng có chọn lọc. Chọn lọc ở đây có nghĩa là họ chỉ xem những tác phẩm mình thích,không ai có thể ép buộc người khác xem một tác phẩm điện ảnh mà họ không thích và không mong muốn được thưởng thức. Điều này khiến cho người xem có một tâm lý tiếp nhận rất ổn định trước và trong suốt quá trình xem phim.
Khác với điện ảnh, truyền hình, với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng, đến với mọi nhà, sục vào mọi ngõ ngách, mọi vùng xa xôi hẻo lánh trên trái đất. Truyền hình trở thành cửa ngõ để mỗi người, không cần phải ra khỏi nhà mình mà vẫn biết tất cả những sự kiện xảy ra trên thế giới, từ những sự kiện địa phương, sự kiện trong nước, cho tới những sự kiện xảy ra ở nơi cách xa hàn vạn km. Không chỉ mang đến cho người xem tin tức, truyền hình còn là phương tiện chuyển tải nhiều loại hình nghệ thuật, nhiều chương trình giải trí. Do đó, truyền hình trở thành một nhà hát tổng hợp, một phương tiện giải trí toàn năng.
Người xem truyền hình ngồi tại nhà mình, trong không gian quen thuộc. Với chiếc điều khiển từ xa trong tay, họ có thể tự do lựa chọn chương trình hấp dẫn nhất, phù hợp nhất với mình. Điều này khiến cho các tác phẩm truyền hình phải luôn tìm cách thể hiện sinh động nhất, có khả năng hấp dẫn nhất để giữ khá giả bên máy thu hình. Do đó, truyền hình phải không ngừng hoàn thiện cách thức xây dựng chương trình của mình để thu hút được người xem .
Đồng thời các tác phẩm truyền hình còn phải đối phó với tất cả những tác động của ngoại cảnh đến tâm lý tiếp nhận của người xem. Họ luôn bị quấy nhiễu bởi những tác động của cuộc sống hàng ngày, tạo ra những chuỗi đứt đoạn trong quá trình tiếp thu thông tin. Chính vì vậy mà tác phẩm truyền hình đòi hỏi phải rất dễ hiểu, và cụ thể trong từng khuôn hình, đồng thời phải có một độ dư thông tin nhất định để người xem có thể hiểu được những đoạn họ không tập trung nhờ logic phát triển của sự kiện. Sự dễ hiểu của tác phẩm truyền hình còn do việc truyền hình có khả năng phủ sóng một khoảng không gian lớn, cùng một lúc phục vụ hàng triệu khán giả với nhiều trình độ văn hoá khác nhau, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, nhiều dân tộc khác nhau. Có nghĩa là công chúng của truyền hình là quảng đại quần chúng. Để thu được hiệu quả truyền thông lớn nhất, tác phẩm truyền hình, một tác phẩm truyền thông đại chúng phải được xây dựng cho công chúng dù trình độ văn hoá như thế nào cũng tiếp nhận được thông điệp của tác phẩm.
Như vậy, trạng thái tiếp nhận một tác phẩm điện ảnh rất khác trạng thái tiếp nhận một tác phẩm truyền hình. Công chúng tiếp nhận tác phẩm điện ảnh trong rạp chiếu, với lượng công chúng nhỏ. Họ luôn sẵn sàng và tập trung cao độ cho việc tiếp thu nội dung tác phẩm và không hề bị chi phối bởi bất cứ tác động nào của môi trường bên ngoài. Trong khi đó tác phẩm truyền hình đến với công chúng trong môi trường quen thuộc của họ, luôn phải đối phó những tác động bên ngoài đến công chúng,cản trở quá trình tiếp nhận tác phẩm. Đồng thời một tác phẩm truyền hình cụ thể luôn bị đặc trong tình trạng phải cạnh tranh với các tác phẩm khác, các chương trình truyền hình khác để giữa khán giả lại với mình. Những khác biệt về trạng thái tiếp nhận của công chúng là nguyên nhân dẫn đến một số điểm khác biệt giữa tác phẩm điện ảnh và tác phẩm truyền hình.

4.2, Về thiết bị thể hiện
Thiết bị thể hiện của điện ảnh và truyền hình rất khác nhau. Các tác phẩm điện ảnh được chiếu trên những màn hình lớn với diện tích hàng chục mét vuông, có tỷ lệ giữa chiều ngang với chiều cao là 7:4 (1:0,57) còn màn hình máy thu truyền hình truyền thống có kích thước rất nhỏ (diện tích một màn hình 21inch chỉ vào khoảng 0,137m2 mà thôi), và có tỷ lệ 4:3 (1:0,75), Như vậy khuôn hình của điện ảnh sẽ bao quát được một không gian chiều ngang rộng hơn nhiều so với hình ảnh truyền hình. Do đó, lượng thông tin trong một khuôn hình điện ảnh cũng lớn hơn nhiều so với một khuôn hình truyền hình.
Toàn bộ hình ảnh trên phim được thể hiện hết trên màn ảnh. Thông tin được thể hiện đầy đủ, bố cục khuôn hình không bị phá vỡ. Nhưng với màn hình của máy thu hình thì việc thể hiện đầy đủ khuôn hình là một khó khăn. Đây là điều kiện khách quan mà người làm truyền hình không thể khắc phục. Một máy thu hình còn mới khả dĩ thể hiện hết hình ảnh gốc của tín hiệu truyền hình nhưng với một máy thu cũ chẳng hạn, hình ảnh gốc trong tác phẩm truyền hình sẽ không được thể hiện đầy đủ. Hình ảnh bị thiếu hụt sẽ làm giảm lượng thông tin tới người xem, đồng thời phá vỡ bố cục của khuôn hình. Bố cục bị phá vỡ rất có thể làm sai lệch nội dung thông điệp mà tác giả muốn chuyển đến người xem. Một người làm truyền hình có kinh nghiệm phải lường trước được tình trạng này để có cách thể hiện hình ảnh phục vụ tốt nhất cho ý đồ của tác phẩm.

4.3, Về đặc trưng phương tiện truyền tải
Hình ảnh và âm thanh của tác phẩm truyền hình được đưa đến với người xem thông qua sóng điện từ. Trước hết,tín hiệu hình ảnh và âm thanh được mã hoá thành dạng tín hiệu điện từ, sau đó được đưa vào máy phát, gửi lên không trung bằng làn sóng vô tuyến điện. Trong điện ảnh, tín hiệu hình ảnh và âm thanh được ghi đồng bộ trên phim. Sau đó được tái tạo lại bằng máy chiếu, màn ảnh và hệ thống hoá.
Hình ảnh video sử dụng trong truyền hình được ghi lại bằng những tín hiệu điện từ trên băng từ tính. Máy ghi hình video (Máy VHS, Umatic, Betacam hayDigital) thu tín hiệu ánh sáng qua hệ thống ống kính quang học của mình. Sau đó tín hiệu ánh sáng này được biến đổi thành tín hiệu điện từ và được ghi lại trên băng từ tính. Như vậy, chỉ trong khâu ghi hình, tín hiệu ánh sáng đến từ vật thể đã phải chịu hai lần mã hoá. Một lần để biến đổi tín hiệu ánh sáng thành tín hiệu điện tử, và lần thứ hai là khi ghi tín hiệu điện từ đó lên bằng từ. Cho dù máy có hiện đại đến đâu thì tín hiệu hình ảnh cũng bị suy giảm chất lượng ít nhiều. Khi đến máy thu, hình ảnh được tái tạo bằng cách tín hiệu video được ống phóng ra tia âm cực biến thành những chùm điện tử, rồi phóng những chùm điện tử tới bắn phá các nguyên tử phosphor trên bề mặt của đèn hình. Điều này một lần nữa làm suy giảm chất lượng hình ảnh thu được trên máy thu. Trong khi đó, hình ảnh của phim nhựa thu được bằng cách cho ánh sáng tác động trực tiếp lên các phân tử nhạy sáng trên phim ảnh. sau đó, những hình ảnh trên phim được chiếu lên màn ảnh bằng hai chùm sáng từ nguồn sáng của máy chiếu. Như vậy hình ảnh của điện ảnh không bị mã hoá lần nào nên chất lượng hình ảnh không bị suy giảm, hình ảnh thu được sẽ trung thực hơn so với hình ảnh video.
Khác biệt đáng kể thứ hai giữa phim nhựa và video là độ tương phản. Nếu như độ tương phản giữa khu vực sáng nhất và tối nhất của phim nhựa có thể đạt tỷ lệ100:1 thì trên hình ảnh video, tỷ lệ đó chỉ đạt 20:1 ở những điều kiện lý tưởng, thông thường chỉ đạt khoảng 15:1. Như vậy phim nhựa có khả năng chuyển tải một dải sắc độ lớn hơn rất nhiều so với hình ảnh video. Độ tương phản cao của hình ảnh cho phép phim nhựa tạo ra những khuôn hình có chiều sâu bối cảnh lớn. Do đó, phim nhựa có được những cảnh toàn và viễn vô cùng hoành tráng mà hình ảnh video không thể tạo ra. Sự vượt trội về khả năng tạo cảm giác không gian của điện ảnh là hơn tuyệt đối so với truyền hình.
Ngoài những hạn chế trên, hình ảnh video còn tối, mờ, không sắc nét, khó xác định ranh giới giữa sắc độ đỏ và da cam. không những thế mà nó còn phải đối phó với tình trạng “đuôi sao chổi” là những vệt sáng xuất hiện khi thể chuyển động trên màn ảnh. Tình trạng này càng trở nên tồi tệ khi vật thể chuyển động càng nhanh.
Không chỉ gặp phải những hạn chế và độ phân giải, độ tương phản của thiết bị thu – phát mà truyền hình còn phải đối phó với nhiều rào cản kỹ thuật khác. Việc sử dụng sóng điện từ để chuyền tài tín hiệu tạo ra cho truyền hình khả năng đến với lượng công chúng lớn, trên một không gian rộng, không phân biệt biên giới hành chính nhưng nó cũng tạo ra nhiều khó khăn. Sóng điện từ có thể bị nhiễu bởi nhiều nguyên nhân như: các nguồn phát sóng điện từ khác,tia lửa điện, điều kiện địa hình, điều kiện thời tiết… làm cho hình ảnh thu được ở máy thu không đẹp và ổn định,làm giảm chất lượng tác phẩm truyền hình. Điều kiện địa hình và thời tiết là một trở ngại khó vượt qua của truyền hình. Trong không gian, sóng điện từ truyền thẳng. Do bề mặt cong của trái đất,chúng ta chỉ thu được tín hiệu truyền hình trong một bán kính nhất định kể từ chân cột phát sóng. Ngoài khoảng cách giới hạn đó không thể thu được sóng truyền hình cho dù có tăng công suất máy phát lên đến bao nhiêu đi chăng nữa. Mặt khác sóng điện từ không vượt qua được các chướng ngại vật hoặc một phần tín hiệu bị trễ pha khi gặp phải vật cản, tạo ra những hình ảnh không sắc nét, hình ảnh có bóng trên màn hình máy thu. Do đó, điều kiện lý tưởng của ăngten thu là ở vị trí “nhìn thấy” cột ăngten của đài phát. Địa hình không bằng phẳng, đặc biệt là địa hình đồi núi là hạn chế rất khó vượt qua của truyền hình vô tuyến. Những vùng bị các dãy núi ngăn cách với cột ăngten phát sóng sẽ không thể thu được tín hiệu truyền hình,tạo nên các vũng lóm,vùng tối.
Như vậy, hình ảnh video của truyền hình kém hơn hình ảnh của điện ảnh về độ phân giải, độ tương phản. Ngoài ra, truyền thông truyền hình còn vấp phải rất nhiều rào cản do các yếu tố kỹ thuật, cơ học, xã hội, tự nhiên,… gây nên. Điều này khiến cho truyền hình không thể thừa hưởng nguyên vẹn ngôn ngữ hình ảnh của điện ảnh mà nó chỉ có thể trên cơ sở kế thừa hệ thống ngôn ngữ đó để xây dựng cho mình một hệ thống ngôn ngữ hình ảnh phù hợp với những đặc trưng kỹ thuật của mình.

Xem thêm :  Phân tích thương vợ trần tế xương đầy đủ ý nhất

5, Những điểm phim tài liệu truyền hình được kế thừa từ phim tài liệu điện ảnh
Truyền hình là phương tiện truyền thông đại chúng dùng hình ảnh động và âm thanh dể chuyển tải thông điệp tới người xem. Chính vì vậy mà ngay từ khi ra đời, truyền hình đã kế thừa được hệ thống ngôn ngữ của điện ảnh. Vì điện ảnh sử dụng hình ảnh động kết hợp với âm thanh. Những yếu tố này được kết cấu theo một phương pháp ghép nối gọi là montage. Truyền hình đã được thừa hưởng những vũ khí lợi hại nhất tạo nên sức mạnh của loại hình truyền thông đại chúng này từ điển ảnh yếu tố ngôn ngữ chính của điện ảnh và truyền hình là hình ảnh động. Đây cũng là yếu tố ngôn ngữ mà truyền hình được thừa hưởng nhiều nhất từ những thành quả của nghệ thuật điện ảnh. Trước hết là hệ thống cỡ cảnh. hệ thống cỡ cảnh trong truyền hình gồm:
-Viễn cảnh (extreme long shot – ELS)
-Toàn cảnh rộng (very long shot-VLS)
-Toàn cảnh (long shot – lịch sử)
-Trung toàn cảnh (medium long shot – MLS)
-Trung cảnh (medium shot – MS)
-Trung cận cảnh (medium close up – MCU)
-Cận cảnh (close up – **)
-Đại cận cảnh (big close up – BCU)
-Đặc tả (extrenme close up – ECU)
-Cảnh đôi (Two shot- TS)
-Qua vai (over shoulder shot-OSS)
Các cỡ cảnh quay chân dung:

Sau hệ thống cỡ cảnh là góc quay. Nếu như cảnh quyết định cho ta xem cái gì góc quay sẽ cho ta xem như thế nào. Những góc quay căn bản của truyền hình cũng được kế thừa từ điện ảnh. Đó là quay bình điện, quay nghiêng, quay chúc, quay hất… Cùng với góc quay là hệ thống động tác máyvới lia, zoom, zoom giật, travelling…
Không chỉ học được ở điện ảnh những biện pháp bố cục khuôn hình, truyền hình còn tiếp thu được nghệ thuật sử dụng ánh sáng của điện ảnh. Tuy nhiên, hiệu quả ánh sáng trên chất liệu bằng từ không tốt bằng phim nhựa, đồng thời yêu cầu về nghệ thuật của tác phẩm truyền hình không cao nên nhiều khi ánh sáng không được chú trọng lắm trong truyền hình.
Yếu tố ngôn ngữ thứ hai của truyền hình là âm thanh. Âm thanh trong truyền hình gồm lời nói, tiếng động và nhạc nền. Một lần nữa, truyền hình được thừa hưởng ở điện ảnh kỹ thuật xử lý âm thanh,đặc biệt là kỹ thuật xử lý và nghệ thuật sử dụng tiếng động và nhạc nền. Đây là hai yếu tố âm thanh đóng vai trò khá quan trọng trong tác phẩm tài liệu truyền hình. Tiếng động được dùng để phản ánh thiên hiên, cuộc sống góp phần làm tăng tính chân thực của sự kiện, hiện tượng trong phim. Nhạc là một phần không thể thiếu trong phim tài liệu truyền hình. Nhạc được sử dụng như một phương tiện biểu cảm, tạo không khí cho phim.
Chỉ có ngôn ngữ thôi thì chưa đủ, truyền hình tiếp tục vay mượn điện ảnh cả hệ thống ngữ pháp hình ảnh- thủ pháp montage. Montage có nhiệm vụ bố cục tác phẩm truyền hình thành những câu hình ảnh (những xen hình) và những trường đoạn. Montage tạo nên chỉnh thể cho tác phẩm truyền hình.
Như vậy, truyền hình khi ra đời đã được thừa hưởng hầu như toàn bộ những hệ thống ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh từ điện ảnh. Truyền hình chỉ phải làm cái việc chọn lọc và cải biến hệ thống ngôn ngữ đó cho phù hợp với những đặc điểm loại hình của mình.

6, Các thể loại phim tài liệu truyền hình
Phim tài liệu truyền hình là một trong bốn loại hình của nghệ thuật điện ảnh mà nguyên tắc hàng đầu là loại bỏ sự hư cấu, chất liệu của nó là những hình ảnh quay người thực việc thực. Phim tài liệu truyền hình có thể chia làm ba nhóm: chân dung, phóng sự, chính luận và nhằm vào ba đối tượng là: con người, sự kiện, vấn đề. Cả ba nhóm thể loại này thường có sự giao thoa, hoà nhập và hỗ trợ lẫn nhau.

6.1, Phim tài liệu chân dung
Là thể loại phim trong các loại hình phim tài liệu khoa hoc, phim truyện. Đối tượng thể hiện chính là nhân vật có thực với đầy đủ số phận, tính cách trong cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, với con người, với bản thân mình. Trong phim tài liệu chân dung, tác giả phải tôn trọng các sự kiện trong thời gian, không gian lịch sử, nhưng có quyền giới thiệu những nhân vật có thực ấy theo cách nhìn và cách hiểu của riêng mình; việc hư cấu các chi tiết hoặc sự kiện của nhân vật, đôi khi có sự khác biệt thậm chí ngược hẳn lại với quan niệm đương thời. Ở Việt Nam các hãng phim tài liệu và truyền hình đã làm nhiều phim chân dung về những nhân vật điển hình trong chiến đấu và sản xuất, đó là các phim tài liệu về những nhân vật thực như: Kim Đồng, Lý Tự Trọng, Lê Mã Lương, Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ (Ông cố vấn),…. Các tác giả cố gắng qua chân dung một con người đã làm nổi lên những sự kiện lịch sử của các phong trào các thời đại.

6.2, Phim phóng sự tài liệu

Là thể loại phim thuộc loại phim thời sự – tài liệu dựa trên những hình ảnh ghi về người thực việc thực theo một đề tài xác định. Phim phóng sự tài liệu có thể hướng ống kính vào những đối tượng khác nhau và bố cục theo những cách thức khác nhau để làm nổi bật con người, sự kiện hay một vấn đề xã hội mang tính thời sự nhất. Qua lời bình, tác giả dẫn giải, phân tích, đánh giá, bình luận theo quan điểm, cảm nghĩ của riêng mình. Mặc dù có thể có khác biệt trong quan điểm tác giả, phim phóng sự tài liệu phải đảm bảo yếu tố chân thực, nhờ đó phim phóng sự có giá trị như một tư liệu lich sử. Như phim “Người lính lái xe tăng 390 ngày ấy”, “Đường về”,…

6.3, Phim thời sự
Là nhóm thể loại thuộc loại hình phim thời sự – tài liệu trong nghệ thuật điện ảnh, sử dụng chất liệu là người thực, việc thực (do đó có giá trị tư liệu lịch sử) được phát trên phương tiện truyền thông điện ảnh hay truyền thông truyền hình, thông tin cho đại chúng biết những sự việc xảy ra hàng ngày trong nước và thế giới. Phim thời sự thường xuất hiện ở dạng một chuỗi những mẩu tin ngắn tập hợp lại thành từng cuốn phim có độ dài trung bình 200m, phim cỡ 35mm hoặc cỡ khác có thời gian chiếu tương đương (phát hành theo định kỳ) hoặc những phim phóng sự có độ dài lớn hơn, phát hành định kỳ hay đột xuất. Ví dụ như: mittinh ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, hoạt động của Hồ Chủ Tịch và phái đoàn ta tại Fôngtenơblô – Pháp, Bác Hồ từ Pháp về nước, các hoạt động của các đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ở nước ngoài: Pháp, Mỹ, Nga, các nước ASEAN,…

7, Các phương pháp khai thác chất liệu
7.1, Phương pháp trực tiếp
Đây là phương pháp ra đời sớm nhất, được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các thể loại và các loại phim nói chung, kể cả phim tài liệu truyền hình, đảm bảo tính chân thực cao nhờ việc ghi lại những hình ảnh người thật, việc thật đang diễn ra trong cuộc sống.
Phương pháp để thực hiện nhất và có hiệu quả nhất, nhưng lại khó sử dụng trong các loại phim về đề tài lịch sử hoặc tái hiện quá khứ.

7.2, Phương pháp gián tiếp
Thông qua tĩnh vật (thư từ, nhật ký, ảnh chụp, hiện vật…) thường hay được sử dụng kết hợp với phương pháp trực tiếp; đặc biệt khi cần thể hiện những sự kiện hoặc vấn đề đã qua; quá khứ của nhân vật hoặc những người đã quá cố.
Các chi tiết, hiện vật, tĩnh vật… phải được cân nhắc, lựa chọn và sử dụng một cách hạn chế, tránh cảm giác thiếu chân thực hay lạm dụng, dẫn đến việc giảm bớt tính thuyết phục người xem.

7.3, Dựng các tư liệu cũ
Sử dụng tư liệu cũ từ nhiều nguồn khác nhau )gồm phim thời sự, tư liệu, ảnh chụp..) theo quan điểm riêng của tác giả, kết hợp với lời bình được viết lại, tạo nên một ý nghĩa hoàn toàn mới, ngược lại ý nghĩa ban đầu của tư liệu.
Càng khó hơn so với hai phương pháp trên và yêu cầu rất cao về thái độ chính trị, ý thức và lập trường tác giả. Đặc biệt tỏ ra thích hợp với thể tài liệu chính luận nói chung.

8, Các yếu tố trong kịch bản phim tài liệu truyền hình 
8.1, Lời bình
Nhân tố quan trọng thứ hai trong phim tài liệu, chỉ đứng sau hình ảnh và có lúc còn vượt lên trên hình ảnh. Tuy nhiên, trong kịch bản, thì lời bình mới chỉ mang tính chất dự kiến, làm rõ những ý mà hình ảnh không nói được hết. Thường được hoà tan nhưng lại vô cùng cần thiết, nhất là trong việc đưa ra các chi tiết, số liệu xác thực cần phải có.
Diễn giải,làm sáng tỏ những vấn đề cần thiết, nhấn mạnh ý nghĩa của nó,và tránh sự hiểu lầm không đáng có, đặc biệt với những đề tài được coi là nhạy cảm, dễ bị suy diễn hay xuyên tạc.
Lời bình chỉ được biết sau khi phim đã dựng xong,và nhiều khi cũng lại do người khác viết, chứ không phải tác giả kịch bản hay đạo diễn, nhưng ngay trong kịch bản cũng phải tính đến điều này. Lời bình có thể được viết ở các dạng vô nhân xưng (mang tính tự sự), nhân danh tác giả, hoặc lời bình của chính nhân vật trong phim.

8.2. Đối thoại
Lời của các nhân vật (phát biểu, trả lời phỏng vấn, trao đổi với nhau…) và câu hỏi của tác giả trong những trường hợp cần thiết, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng, không gì thay thế được vì tính xác thực, trực tiếp của nó, không thông qua trung gian là tác giả. Nhờ vậy, tiểu sử, tính cách, đặc điểm… nhân vật cũng rõ nét hơn và thường chỉ được dự kiến trong kịch bản, chứ không cụ thể hoá trong kịch bản phim truyện. Vì tại thời điểm viết kịch bản, tác giả không thể ghi được (hay thu được) lời nhân vật. Nên hạn chế sử dụng nhân vật nếu không sẽ dễ bị lẫn với các thể loại khác hoặc gây cảm giác nhàm chán cho người xem (phim nói).

8.3, Lời nói sau khuôn hình
Lời bình, lời của tác giả hoặc nhân vật không xuất hiện trên phim, với mục đích giới thiệu bối cảnh, không gian, thời gian, sự kiện con người… trong trường hợp các thủ pháp khác không đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài ra, còn có tác dụng nhấn mạnh ý nghĩa của vấn đề hoặc sự mỉa mai, cay đắng… và độc thoại nội tâm nhân vật.
Cũng chỉ được viết và đưa vào sau khi phim đã dựng xong, nhưng vẫn cần được dự kiến một cách tương đối cụ thể trong kịch bản.

8.4, Phần phụ đề
Giới thiệu nhân vật, bối cảnh, không gian , thời gian, nguồn gốc, xuất xứ… của tư liệu trong các trường hợp cần thiết, nhằm đảm bảo tính chân thực, tránh sự hiểu lầm, suy diễn… Thường được sử dụng trong những phim có nhiều nhân vật và bối cảnh.
Tạo bước chuyển hoặc kết thúc và thay thế lời nhân vật, hoặc lời bình trong một số trường hợp nhất định. Thường là những dòng chữ ngắn gọn, đi cùng hình ảnh và chỉ được đưa vào sau khi phim đã hoàn thành.

8.5, Phần lời bạt (hoặc vĩ thanh)
Dùng để kết thúc trọn vẹn một vấn đề, thể hiện thái độ của tác giả tạo ra sự liên tưởng, làm rõ thêm những ý mà các biện pháp khác không thể hiện hết được.
Được biểu hiện qua hình thức màn chữ, lời nhân vật, lời tác giả hoặc lời bình.

9, Kết cấu và bố cục kịch bản phim tài liệu truyền hình
Định nghĩa: Kết cấu là sự hình thành và bố cục cho cân đối các nhân tố trong kịch bản và phim. Nó phản ánh nhận thức của người làm phim về các quy luật hiện thực khách quan được trình bày trong diễn biến của một tác phẩm cụ thể.

9.1. Quá trình kết cấu và bố cục
9.1.1. Mục đích
Làm rõ tư tưởng chủ đề tác phẩm, tạo nên tiết tấu và nhịp điệu của kịch bản và phim; phát huy tác dụng của việc lặp lại những chi tiết tương đồng hay đối lập, nêu bật ý nghĩa của vấn đề.
Cho thấy đặc điểm, tâm lý, tính cách của nhân vật, bản chất của sự việc, sự kiện hoặc vấn đề…
Tạo nên sự cân đối, hài hòa trong tác phẩm.

9.1.2, Yêu cầu
Vận dụng, kết hợp các yếu tố kỹ năng nghề nghiệp để tạo nên tác phẩm hoàn chỉnh; sử dụng một cách hợp lý số lượng và quan hệ giữa các nhân vật và sự kiện; quan hệ giữa các chi tiết, sự kiện bên trong và bên ngoài phần nội dung được trình bày trong kịch bản và phim.
Đảm bảo sự cân đối hợp lý giữa độ dài thời gian diễn biến câu chuyện, dung lượng và thời lượng của phim.

Xem thêm :  7 hằng đẳng thức đáng nhớ và các dạng toán áp dụng

9.2, Các nhân tố trong kết cấu
9.2.1, Phần mở đầu
Còn gọi là phần giao đãi hay giới thiệu phải trả lời các câu hỏi: Ai? (nhân vật ấy là ai,lứa tuổi, giới tính, tiểu sử, nghề nghiệp..) Cái gì? (Sự kiện, sự việc chủ yếu trong kịch bản và phim) Ở đâu? (vị trí, địa điểm, vùng miền, quốc gia…) Bao giờ? (thời gian, thời điểm, thời kỳ lịch sử ..) Như thế nào? (nguyên nhân, diễn biến phát triển của câu chuyện, sự việc, sự kiện…)
Thường hết sức gắn gọn, tránh dài dòng, tai nạn, dẫn đến những việc khó thu hút sự chú ý của người xem.

9.2.2, Phần thắt nút
Có nhiệm vụ rất quan trọng, là tạo ra cái cớ, hay lý do cho hành động của các nhân vật. Ở phần này, trạng thái “tĩnh” giữa các nhân vật, sự kiện và sự việc bị phá vỡ; chuyển sang thế “động”. Nhân vật sẽ buộc phải hành động theo hướng mà cái thắt nút thắt lại, và nút thắt theo hướng nào, thì hành động của nhân vật đi theo hướng đấy.
Phần thắt nút không nên ( và cũng không thể kéo dài, vì nếu như vậy, nhân vật sẽ chưa thể hành động được ngày, gây cảm giác “giậm chân tại chỗ” khiến cho câu chuyện không thể phát triển được.

9.2.3, Phần phát triển và mở rộng
Mọi va chạm, mâu thuẫn xung đột… đều được lần lượt triển khai thông qua hành động và mối quan hệ giữa các nhân vật với các sự kiện, sự kiện và tình huống cụ thể, trong đó phương thức hành động đóng vai trò quyết định trong việc thể hiện tâm lý, tính cách, mục đích hành vi của nhân vật. Qua từng bước phát triển, sự va chạm, đụng độ giữa các nhân vật dẫn đến những quan hệ và xung đột mới, cốt chuyện nhờ vậy cũng được mở ra theo chiều rộng và bề sâu.
Đối với một số thể phim tài liệu, không nhất thiết phải có xung đột mâu thuẫn cũng như cốt truyện, nhưng dù sao vấn đề này cũng rất quan trọng và qua đó, cho thấy tài năng sáng tạo của người nghệ sỹ, trình độ tay nghề và bản lĩnh của anh ta. Thông thường, đây là trường đoạn dài nhất và quan trọng nhất trong kịch bản nhiệm vụ và phim tài liệu.

9.2.4, Phần đỉnh điểm (cao trào)
Ở phần này mọi mâu thuẫn và xung đột đều được đẩy lên mức độ rất cao, dẫn đến tình trạng “tức nước vỡ bờ”, đòi hỏi tác giả nhanh chóng tìm cách mở nút, kết thúc vấn đề.
Lưu ý phân biệt phần đỉnh điểm này với những “cao trào” trong từng trường đoạn, sau đó được giải quyết ngay để lại bước sang một mâu thuẫn mới. Đây cũng là phần chứa đựng được mâu thuẫn chính, chiếm vị trí trung tâm trong tác phẩm.

9.2.5, Phần mở nút (kết thúc vấn đề)
Có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tạo nên sự thành công của tác phẩm. Cho thấy một cách trọn vẹn tư tưởng chủ đề, những ý nghĩa, bài học rút ra từ tác phẩm,thái độ của tác giả.
Có thể kết thúc một cách bất ngờ, trọn vẹn hay kết “lửng”; sử dụng lời bạt hay vĩ thanh… nhưng không được kéo dài, tránh gây sự nhàm chán hay cảm giác giáo huấn vụng về đối với người xem.

9.3, Bố cục
9.3.1, Cảnh quay (cadre)
Đơn vị cơ bản, quan trọng nhất trong kịch bản và phim, là một cú bấm máy liên tục tại một bối cảnh hay ngoại nhưng máy quay không thay đổi vị trí. Phân biệt với cảnh (Plan) – để nói về cỡ cảnh và khuôn hình.
Cảnh quay có thể bao hàm một nội dung trọn vẹn hoặc không, tạo nên đoạn và trường đoạn.

9.3.2, Đoạn (sèene)
Gồm một hay nhiều cảnh quan hợp thành, chứa đựng một nội dung nhất định và bộ phận của câu chuyện, sự kiện hay vấn đề.
Có thể diễn ra tại một bối cảnh nội hay ngoại, hoặc nội kết hợp ngoại, có sự chuyển dịch, thay đổi vị trí máy quay với những góc độ và động tác khác nhau, và tuân theo ý đồ sáng tạo nhất định.

9.3.3, Trườngđoạn (épisode)
Gồm một hay nhiều đoạn liên kết với nhau bởi đề tài, vấn đề và tư tưởng chủ đề chung của kịch bản và phim
Là một phần trọn vẹn, có ý nghĩa hoàn cảnh chỉnh và độc lập trong kịch bản và phim, có chức năng phát triển đề tài chung và tư tưởng chủ đạo, bao trùm của tác phẩm.
So với kịch bản phim truyện, thì cảnh quay, đoạn và trường đoạn trong kịch bản và phim tài liệu thường ngắn hơn do đặc thù của thể loại, nhưng số lượng cảnh quay lại rất nhiều, trong khi số đoạn và trường đoạn thường hạn chế do dung lượng và thời gian của phim có hạn.

9.4, Hình thức kết cấu.
9.4.1, Kết cấu theo dòng chảy thời gian và sự kiện
Hình thức phổ biến, quen thuộc nhất, hay được sử dụng nhất trong tất cả các loại phim tài liệu nói chung, vì dễ thực hiện và dễ đi sâu vào việc miêu tả, phân tích các sự việc, sự kiện và bản chất của vấn đề.
Vai trò tác giả không lộ rõ, nhờ vậy tính khách quan được đảm bảo cao hơn và người xem cũng dễ theo dõi tác phẩm hơn.

9.4.2, Câu chuyện được kể lại bằng hình ảnh (hồi tưởng).
Thường được sử dụng trong các loại phim tài liệu chân dung,sự kiện hoặc vấn đề, trong đó nguyên cớ dẫn đến nội dung cần thể hiện đóng vai trò quan trọng.
Phá vỡ dòng chảy thời gian và sự kiện, nhờ vậy tính kịch được tăng thêm và ý nghĩa vấn đề có thể trở lên sâu sắc hơn,nhưng nếu không cẩn thận sẽ dễ làm cho câu chuyện bị rối, trở lên khó hiểu,nhất là trong những phim có nhiều nhân vật, với những hồi ức khác nhau.

9.4.3, Dùng người kể chuyện hoặc dẫn chuyện.
Ít được sử dụng so với hai hình thức trên, nhưng nếu sử dụng tốt thì sẽ tạo nên được hiệu quả rất mạnh và sâu.
Người dẫn chuyện có thể là nhân vật trong phim hoặc chính bản thân tác giả, đóng vai trò dẫn dắt, xuyên suốt toàn bộ nội dung tác phẩm, nhưng khác hẳn phim tài liệu chân dung, người dẫn chuyện không phải là nhân vật chính, với những nét độc đáo, tiêu biểu, điển hình mà chỉ tập hợp, tổ chức xâu chuỗi các sự kiện với nhau, theo quan điểm sáng tạo của tác giả.

9.4.4, Dựng lại tư liệu cũ theo luận đề mới.
Càng ít được sử dụng hơn so với các hình thức kết cấu trên. Bộc lộ rõ bản lĩnh, tư tưởng, lập trường tác gỉa, tài năng và tay nghề.
Đặc biệt thích hợp với các thể phim tài liệu chính luận (chủ nghĩa phát xít thông thường, phản bội, cuộc chiến tranh Việt Nam – những hình ảnh chưa được công bố)

9.5, Các biện pháp gây cao trào hoặc nhấn mạnh.
-Dùng điệp khúc (Sự lặp lại) để nhấn mạnh nét chủ đạo và ý nghĩa của vấn đề.
-Dùng trường đoạn trước gây cao trào cho trường đoạn sau.
-Thay đổi tiết tấu, nhịp điệu trong phạm vi trường đoạn.
-Sử dụng hành động song song trong trường đoạn.
Lưu ý
Cũng giống như trong bất kỳ một tác phẩm văn chương hay phim truyện nào, kịch bản và phim tài liệu truyền hình cũng phải có đầy đủ yếu tố, gồm giới thiệu, thắt nút, phát triển, cao trào và mở nút Nhưng việc sắp xếp, bố cục kịch bản và phim lại không nhất thiết phải tuân theo trình tự này mà phụ thuộc hoàn toàn vào ý đồ sáng tạo của tác giả.
Do nhiệm vụ của từng trường đoạn khác nhau, nên độ dài ngắn cũng khác nhau, và do đặc thù của phim tài liệu khác với phim truyện nêu trên thực tế mỗi kịch bản hay bộ phim tài liệu không nhất thiết phải hộ đủ 5 trường đoạn mà vẫn có thể ít hơn hoặc nhiều hơn, nhưng trong phạm vi từng trường đoạn, lại hải có đủ 5 yếu tố trong kết cấu.

10, Lời bình
10.1, Vị trí, vai trò của lời bình
10.1.1, Nhân tố quan trọng, không thể thiếu
Đối với phim tài liệu, lời bình có vị trí vô cùng quan trọng, chỉ đứng sau phần hình ảnh. Trong một số trường hợp cụ thể còn thay thế hoặc vượt lên trên hình ảnh, làm rõ tư tưởng chủ đề của bộ phim hoặc những ý mà hình ảnh không nêu được hết. Đưa ra các số liệu, dữ liêu, sự việc…
Góp phần phát hiện bản chất có ý nghĩa triết học của hiện tượng và sự kiện; nhấn mạnh ý nghĩa xã hội của vấn đề… qua việc kết hợp với các thủ pháp văn học như điệp từ, so sánh, đối chiếu, hô ứng… làm bật ra những ý nghĩa cần nêu.
Là sự kết hợp hài hoà giữa hình thức và nội dung, phong cách và thể loại ngôn ngữ văn chương và báo chí, tạo nên hiệu quả nghệ thuật cho phim, đồng thời khắc phục,sửa chữa những sai sót khiếm khuyết (nếu có) từ các khâu khác.
Có giá trị tương đối độc lập so với kịch bản và phim. Dùng để chuyển cảnh xâu chuỗi, gắn kết các nhân vật, sự việc, sự kiện.. tạo ra mạch chuyện và câu chuyện; Thể hiện thái độ lập trường tác giả.

10.1.2, Khuynh hướng
– Sử dụng lời bình một cách hạn chế, có chừng mực nhờ việc khai thác tối đa hiệu quả của hình ảnh; nâng thêm một nấc mới. Thích hợp với những bộ phim giàu chất liệu tạo hình và tư liệu.
– Sử dụng lời bình như một phương tiện biểu hiện chủ yếu của phim, nhất là trong những trường hợp phim bị thiếu hụt hình ảnh hoặc tư liệu vì một lý do nào đó (nói về người quá cố; vì lý do tế nhị hoặc khó khăn’ không ghi được hình.. Dễ biến thành “phim nói”do ít chất “xi nê ma”.
– Hoàn toàn không sử dụng lời bình chỉ dùng rất ít, kết hợp với đối thoại hoặc độc thoại của nhân vật: xu hướng làm phim hiện đại, đòi hỏi thiết bị đồng bộ; tuy nhiên, dễ gây ra sự mù mờ khó hiểu hay ngược lại nhàm chán cho khán giả.

10.2, Quá trình viết lời bình.
10.2.1, Tiếp cận tìm hiểu bộ phim
– Bước mở đầu rất quan trọng, đặc biệt trong trường hợp biên kịch và đạo diễn không tự viết lời bình. Sự trao đổi, thống nhất về mặt nội dung và hình thức của lời bình. Điều chỉnh, sửa chữa chi tiết và hình ảnh, nếu cần tìm hiểu số liệu, sự kiện sự việc.. liên quan đến nội dung của lời bình và phim..
– Xem băng dựng, tính toán thời lượng, nội dung từng đoạn và trường đoạn, lên phương án và nội dung lời bình tương ứng. Xác định số liệu,dữ kiện sẽ đưa vào lời bình, phong cách, giọng điệu, biện pháp tu từ học….

10.2.2, Thực hiện
– Viết, trên cơ sở những nội dung và vấn đề đã được xác định,sử dụng các thủ pháp, phương pháp phù hợp. Huy động đến mức tối đa tài năng, vốn sống và kiến thức nói chung; bổ sung những gì còn thiếu hụt.
– So sánh, đối chiếu, đọc thử, sửa chữa, gọt giũa cho phù hợp với nội dung phim, thêm vào hoặc cắt bớt.
Kiểm tra soát lại nhằm tránh nhầm lẫn, thừa thiếu, hoặc những câu chữ dễ gây hiểu lầm; thay thế những từ ngữ quá đặc thù bằng những từ ngữ phù hợp, tránh gây khó khăn cho người đọc lời bình.

10.3, Hình thức lời bình
10.3.1, Nhân danh tác giả, nói thẳng với người xem
Hình thức hay được sử dụng, gần gũi với ngôn ngữ báo chí, dễ tác động mạnh tới nhận thức của người xem.

10.3.2, Hình thức “vô nhân xưng”
Ít nhiều mang tính “tự sự” tạo nên cảm giác khách quan, chân thực. Được sử dụng trong tất cả các thể và các loại phim tài liệu nói chung.

10.3.3, Lời nhân vật
Nhân danh nhân vật, trình bày suy nghĩ, tình cảm, nhận thức của tác giả đối với sự việc, sự kiện. Khó viết hơn,nhưng nếu khéo sử dụng, sẽ đạt hiệu quả rất sâu.

11, Phong cách
11.1, Phim tài liệu chân dung
Xác định rõ đối tượng, nhân thân với những tính cách điển hình để từ đó có lời lẽ, giọng điệu cho phù hợp; chú ý sự khác biệt của từng loại nhân vật trong các bộ phim khác nhau

11.2, Phim tài liệu chính luận
Lời lẽ thường rút gọn, đanh thép và chính xác. Tránh những câu chữ sáo mòn, hoa mỹ nhưng trống rỗng; những từ ngữ dễ gây hiểu lầm, nước đôi…

11.3, Chú trọng khai thác chất thơ, sử dụng nhiều ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ. Tác động tới người xem thông qua nhận thức thẩm mỹ của họ.

KẾT LUẬN

Phim tài liệu là thể loại ra đời sớm nhất trong hệ thống thể loại của cả điện ảnh và truyền hình. Phim tài liệu ra đời do nhu cầu ghi nhận hiện thực cuộc sống xung quanh mình bằng những hình ảnh về con người, sự việc, sự kiện có thực trong quá trình phát triển, phim tài liệu ngày càng chứng tỏ được sức mạnh của nó và trở thành một thể loại không thể thiếu trong đời sống điện ảnh và truyền hình hiện đại. Nhận thấy những khả năng to lớn của phim tài liệu trong việc định hướng dư luận xã hội, truyền hình đã tiếp nhận thể loại này vào hệ thống thể loại của mình.
Sự xuất hiện của phim tài liệu truyền hình là sự hợp tác hai chiều. Nếu như truyền hình tìm thấy khả năng to lớn của phim tài liệu trong việc định hướng dư luận xã hội; thì những nhà làm phim tài liệu tìm thấy ở truyền hình những điều kiện đảm bảo cho phim tài liệu phát huy được khả năng của mình. Phim tài liệu sử dụng trên truyền hình đã phát huy cao độ khả năng giáo dục thẩm mỹ, khả năng định hướng các giá trị thẩm mỹ và những giá trị nhân văn cho công chúng.
Vì ra đời sau nên phim tài liệu truyền hình được thừa hưởng rất nhiều từ thể loại phim tài liệu của điện ảnh. Nó thừa hưởng gần như toàn bộ hệ thống ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh cùng với thủ pháp Montage của điện ảnh. Tuy nhiên, do những đặc trưng loại hình khác nhau mà hệ thống ngôn ngữ đó ở phim tài liệu truyền hình có điểm khác so với phim tài liệu điện ảnh. Những điểm khác đó là cỡ cảnh thích hợp với từng loại hình, kết cấu, độ dư thông tin, tính thời sự của đề tài. Do vậy, những người làm phim khi xây dựng tác phẩm tài liệu truyền hình cần chú ý tới những điểm khác biệt này để có thể cho ra đời những bộ phim truyền hình có giá trị.

(Nguon: thoisuttv.wordpress.com)

TOÀN CẢNH CHIẾN TRANH VIỆT NAM | Full HD | Phim tài liệu TUYỆT MẬT

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tin tức
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tin tức Tại Website Pkmacbook.com