Nét đặc sắc của văn hóa việt nam

Tóm tắt: Đặc trưng của văn hóa Việt Nam là đặc điểm nổi bật, là thuộc tính riêng của nó khi chúng ta so sánh nó với các nền văn hóa khác trong khu vực và quốc tế. Vận dụng phương pháp tiếp cận địa lý – lịch sử, những nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam kết tinh thành quả hàng nghìn năm lao động và đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, bao gồm: nền nông nghiệp trồng lúa nước ở các vùng sông nước, biển đảo; đề cao các giá trị văn hóa gia đình truyền thống; mang đậm tính cộng đồng, tính tự quản của văn hóa làng xã; thấm nhuần sâu sắc tinh thần yêu nước và ý thức quốc gia – dân tộc; thúc đẩy nữ quyền; nông nghiệp, xa rừng, nhạt màu biển cả; đa sắc tộc, thống nhất trong đa dạng; một nền văn hóa cởi mở, thích ứng và hài hòa của các nền văn minh nhân loại.

Đặc điểm, chiết từ Hán Việt là đặc điểm của sự vật, hiện tượng và sự thể hiện đặc điểm đó trong cuộc sống. Với cách hiểu thông thường, đặc điểm là đặc điểm nổi bật, tiêu biểu của sự vật, hiện tượng, tạo dấu hiệu để chúng ta phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.

Văn hóa Việt Nam kết tinh quá trình lao động của các dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, thể hiện trình độ, nghệ thuật ứng xử với tự nhiên, xã hội và sự chủ động hòa vào dòng chảy văn hóa. nhân loại. Đặc trưng của văn hóa Việt Nam là nét nổi bật, là thuộc tính riêng khi chúng ta so sánh với các nền văn hóa trong khu vực và trên thế giới. Thời gian qua, nhiều học giả ở Việt Nam, tùy theo từng cách tiếp cận đã tìm hiểu, giới thiệu những nét đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Tiếp thu kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, áp dụng phương pháp tiếp cận lịch sử – địa lý, chúng tôi rút ra những đặc điểm sau của văn hóa Việt Nam:

1. Nền văn hoá hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước vùng sông nước và biển, đảo.

Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á, hình chữ S chạy dài từ Bắc vào Nam, diện tích đất liền là 331.212 km2, đường bờ biển dài 3.260 km. Căn cứ vào các văn bản pháp luật quốc tế và trong nước, vùng biển nước ta rộng hơn 3 lần diện tích đất liền và chiếm khoảng 29% diện tích toàn Biển Đông, nơi có trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ. Khí hậu nhiệt đới nắng nóng, mưa nhiều, mùa đông gió mùa đông bắc lạnh. Gió đông nam từ biển Đông mang hơi nước vào đất liền gặp vùng núi cao và không khí lạnh hội tụ thành mưa nhiệt đới. Ở Việt Nam, hầu hết các sông lớn nhỏ đều bắt nguồn từ núi rừng phía Tây đổ về phía Đông đổ ra biển. Dòng nước mang theo nhiều phù sa nên các thung lũng chân đồi và châu thổ ven biển rất thích hợp cho cây xanh. lúa gạo. Việt Nam có 54 dân tộc anh em, dân số hơn 96,2 triệu người, trong đó dân tộc Kinh hơn 82 triệu người, chiếm đa số 85,3% (theo điều tra dân số ngày 01/4/2019), tiếp theo là các dân tộc khác. các nhóm. Dân tộc Tày, Thái, Mường, Khmer. Cư dân của 5 dân tộc này đều lấy nghề trồng lúa nước làm nguồn sinh kế chính. Vì vậy, nền tảng và dòng chảy chính của văn hóa Việt Nam là của dân tộc Kinh, sau đó là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Khmer, sau đó là các dân tộc thiểu số còn lại. Trong lịch sử, địa bàn cư trú của người Việt ở đồng bằng cũng như ở các thung lũng dưới chân núi, họ đều lập làng bên sông, vùng có nguồn nước, ven biển hoặc trên các cù lao có nước để sinh sống. Trong thời kỳ phong kiến, đại bộ phận người dân Việt Nam sống chủ yếu bằng nghề nông và trồng lúa nước là chủ yếu. Hệ thống giá trị nghề trong thời kỳ phong kiến ​​là học – nông – công – thương. Nông nghiệp đứng hàng thứ hai sau quan. Chính sách trong thời kỳ phong kiến ​​là khuyến khích nông nghiệp trồng lúa nước (vua cho cày), đắp đê, khơi thông để điều tiết nước trồng lúa. Điều này dẫn đến một số câu tục ngữ trong văn hóa Việt Nam đúc kết tri thức dân gian về nghề, hầu hết là những tổng kết kinh nghiệm trồng lúa và các vấn đề liên quan đến nghề trồng lúa nước. Trước đây, chưa có điện, người dân không thể dùng máy bơm điện để tưới tiêu. Việc trồng lúa phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, đặc biệt là nước. Cha ông ta đã đúc kết lại rằng: “Nhất nước, nhì phân, ba can, bốn giống”. Lễ hội là một hoạt động lớn của người nông dân vùng quê, hiện còn lưu giữ những nét sinh hoạt văn hóa liên quan đến sông nước như tín ngưỡng cầu mưa, thờ mẹ lúa, thờ Tứ pháp (mây – mưa – sấm – chớp), cầu siêu. nước. nước (qua lễ rước nước), cầu cạn, cầu nước rút để có mùa lúa, cuộc sống no đủ. Bữa cơm của người Việt là cơm được nấu từ gạo, một sản phẩm của cây lúa. Gạo là hạt ngọc thật, có rất nhiều món ăn ngon được chế biến từ gạo …

2. Nền văn hóa đề cao các giá trị văn hóa gia đình truyền thống

Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi sinh ra và nuôi dưỡng nhân cách của con người. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có sự lựa chọn, đề cao những giá trị khác nhau trong văn hóa gia đình. Đối với người Việt Nam, các giá trị văn hóa gia đình truyền thống được đúc kết từ sự thích nghi, ứng phó của dân tộc với tự nhiên và xã hội trước những thách thức của lịch sử. Cũng là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, nhưng người Việt Nam có tình cảm sâu nặng với tổ tiên thông qua các nghi lễ tín ngưỡng. Trong nhà, vị trí trang trọng nhất, trang hoàng lộng lẫy nhất là bàn thờ tổ tiên, sau đó nhiều dân tộc trên thế giới không thờ, hoặc có thờ nhưng bàn thờ người đã khuất thường nhỏ, để ở góc tường. nhà ở. Người Việt thờ cúng tổ tiên không giới hạn thời gian, sau 5 đời nhập bát hương thờ ông cố thành một bát hương chính gọi là bát hương thờ gia tiên. Tôn trọng mồ mả, giỗ chạp ông bà, cha mẹ, không có tục bỏ mả, dời nơi thờ tự. Suy cho cùng, kính trọng tổ tiên chính là cách người Việt đối xử với những người đã sinh thành ra mình.

Xem thêm :  Bún riêu cua xí quách

Văn hóa gia đình truyền thống Việt Nam giàu tính nhân văn như kính trọng người già, yêu trẻ, đề cao tình nghĩa vợ chồng: “Chồng mặc áo rách thì thương cho, chồng mặc áo gấm, mặc hương”. Tôn trọng quyền của người mẹ, tuy sống trong xã hội phụ hệ nhưng vai trò của người mẹ là không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa gia đình. Mẹ là người tay hòm chìa khóa, chủ xị và tham gia sáng tạo các nghi lễ văn hóa. Con cháu phải giữ nề nếp nhà cửa, hiếu thảo với cha mẹ. Anh em phải gắn bó, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, khó khăn, phương châm ứng xử là “chị em ngã thì nâng”. Giá trị văn hóa gia đình truyền thống được thể hiện trong các mối quan hệ xã hội như gọi người cao tuổi là ông, bà, chú, dì, bác, bác, cậu, dì… còn người nhỏ tuổi gọi là em, cháu, cháu.

Một trong những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình Việt Nam là quan niệm gia đình gắn liền với quốc gia – dân tộc. Người Việt Nam coi đất nước là một đại gia đình. Nỗi nhớ cội nguồn sâu xa kể về Rồng cha (Lạc Long Quân) lấy mẹ Tiên (Âu Cơ), sinh ra bọc trăm trứng, nở ra các dân tộc khác nhau trên đất nước Việt Nam. Cả nước có ngày Giỗ Tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch).

3. Văn hóa cộng đồng, tính tự quản của văn hóa làng xã

Làng là một tổ chức xã hội độc đáo trong xã hội phong kiến ​​Việt Nam. Làng bắt đầu từ một gia đình huyết thống, sau đó mở rộng ra gồm nhiều dòng họ cùng sinh sống. Làng Việt Nam thể hiện rõ nét tính cộng đồng. Dân làng có quan hệ mật thiết với nhau trong mọi hoạt động sống, từ trồng trọt, chăn nuôi, trao đổi hàng hóa đến tổ chức các hoạt động văn hóa. Dưới chế độ phong kiến, mỗi làng Việt Nam đều có ruộng công, là tài sản của cả làng, cứ 3 đến 5 năm lại được chia lại theo phần của làng (con) trong làng. Đây là cơ sở kinh tế quan trọng để mỗi thành viên trong làng gắn bó với nhau. Làng là quê hương của tổ tiên, là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi được gọi một cách trân trọng là quê hương. Ruộng công cũng được giao cho các thành viên trong làng trồng trọt phục vụ công việc của làng. Đình là biểu tượng của mỗi làng, thờ vị thần hộ mệnh. Cộng đồng làng tổ chức hội làng để thể hiện sức mạnh tâm linh trong các công trình kiến ​​trúc tôn giáo: đình, đền, chùa, miếu, mạo, quán. Tính cộng đồng được thể hiện trong các hoạt động văn hóa của các thành viên trong làng như đám cưới, đám tang, mừng sinh nhật, về nhà mới, v.v.

Dưới thời phong kiến, tổ chức ở mỗi làng xã Việt Nam khá chặt chẽ, có nhà nghiên cứu đã ví làng Việt như một bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam, thể hiện rất rõ tính tự chủ của nó. Có câu tục ngữ rằng: “Tiếng trống làng nào đánh, thánh làng đó thờ”, “Phép vua thua luật làng”. Mỗi làng đều tạo nên những biểu tượng văn hóa có giá trị thẩm mỹ riêng thông qua kiến ​​trúc cổng làng, đình, chùa, giếng, bến nước … Làng Việt duy trì cơ chế dân chủ làng xã, các thành viên nam đều được phép bàn bạc công việc của làng trong xã. nhà rông. Hội đồng bô lão (những người có chức sắc và ảnh hưởng trong làng) có vai trò tư vấn cho trưởng làng quyết định các công việc của làng và công việc đó chỉ được thực hiện khi được sự đồng ý của Hội đồng. ông già. Mỗi làng quê Việt Nam có những phong tục tập quán riêng, nhiều làng dân chủ bàn bạc thông qua hương ước, duy trì những phong tục tập quán lâu đời. Trong ứng xử, người Việt Nam đặt mối quan hệ với dân làng cao hơn mối quan hệ với những người cùng huyết thống: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần”, “Sống làng, bán nước”. Tinh thần kính trọng người cao tuổi: “Triều đình tôn chức, làng tôn xỉ” (kính trọng người cao tuổi). Tính cộng đồng và tính tự trị là cơ sở để làng xã Việt Nam trở thành pháo đài văn hóa lưu giữ bản sắc vùng miền. Một số nhà nghiên cứu cho rằng cấu trúc của xã hội Trung Quốc là: cá nhân – gia đình – dòng tộc – quốc gia, còn cấu trúc của xã hội Việt Nam là: cá nhân – gia đình – làng xã – quốc gia. Như vậy, ở Việt Nam, làng là một thực thể tự trị, nhưng làng và nước có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo nên giá trị của chủ nghĩa yêu nước.

4. Nền văn hoá thấm nhuần sâu sắc lòng yêu nước và ý thức dân tộc – dân tộc

Lịch sử đã chứng minh rằng trong suốt hàng ngàn năm các đế quốc phương Bắc không từ bỏ tham vọng thôn tính Việt Nam thành quận huyện và âm mưu đồng hóa người Việt. Trước thử thách của lịch sử, người Việt Nam đã tự bảo vệ mình bằng vũ khí văn hóa, phát huy và truyền bá tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc – dân tộc. Người Việt đã sáng tạo ra một hệ thống thần thoại về họ Hồng Bàng, nói về cội nguồn của các tộc người trên đất Việt, coi các tộc người ở Việt Nam là đồng bào. Tổ quốc là một dòng họ lớn, có các Vua Hùng là vị tổ khai sinh ra nhà nước Văn Lang đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tạo nên sự tích Mỵ Châu – Trọng Thủy để truyền lại bài học cảnh giác chống giặc ngoại xâm. Truyện dân gian kể về sự thông minh của các sứ quân và tư cách của nước Việt trong việc cứu thể diện cho dân tộc và đất nước khi đối phó với vua, quan, sứ thần phương Bắc. Chống chiến tranh ngoại xâm với tinh thần: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Các làng xã của người Việt đều xây dựng đình làng thờ thần làng làm thần hộ mệnh, hầu hết các vị thần được thờ là người có công đánh giặc ngoại xâm, góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Những câu ca dao kêu gọi đại đoàn kết dân tộc: “Gầu thì thương lấy bí, dù khác xa nhau nhưng cùng chung một giàn”; “Tiếng ồn che giá gương, người một nước phải thương nhau”. Thời phong kiến, người Việt Nam quan niệm trung thần luôn gắn liền với lòng yêu nước. Ý thức về lãnh thổ quốc gia đã ăn sâu vào tâm thức người Việt qua truyền thuyết về nước Văn Lang gồm 15 bộ tộc. Chính vì vậy mà Hoàng đế Quang Trung đã gửi thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) xin phân rõ biên giới cũ, định lấy lại bờ cõi của các Vua Hùng. Lòng yêu nước thấm nhuần trong mọi hoạt động văn hóa nghệ thuật. Văn thơ bác học yêu nước ở bất kỳ thời kỳ nào trong lịch sử dân tộc Việt Nam, nhất là thời kỳ phong kiến ​​đều thấm nhuần chủ đề khẳng định Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền, có khuôn khổ rõ ràng. có lịch sử lâu đời. Tiêu biểu là tục thờ các vị thần: Nam quốc sơn hà Nam đế trấn yểm, tương tích danh tướng Lý Thường Kiệt và Cao Bình Ngô, áng văn tế cổ anh hùng của đại thi hào Nguyễn Trãi. Hơn hết, người Việt Nam hiểu rằng mất văn hóa là mất dân tộc, mất nước, nên yêu nước là chung sức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, coi thường văn hóa ngoại lai, gọi người phương Bắc đến trú ngụ là khách. Các di tích lịch sử, văn hóa tưởng nhớ những người có công với nước và dòng nghệ thuật yêu nước chống xâm lược đã thể hiện rõ tâm hồn, tính cách, ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc và khát vọng yêu hòa bình. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của dân tộc Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.

Xem thêm :  Cách lập kế hoạch học tập hiệu quả

5. Một nền văn hóa đề cao nữ quyền

Lịch sử loài người phát triển từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Ở các nước phương Tây, đó là quá trình phụ nữ mất dần địa vị xã hội, đặc biệt là dưới chế độ phong kiến. Đến nay, vấn đề nữ quyền đang nổi lên trong xã hội phương Tây, phụ nữ đang đấu tranh chống lại sự phân biệt đối xử và đòi bình đẳng giới. Ngược lại, trong văn hóa Việt Nam, biểu hiện phân biệt đối xử với phụ nữ rất mờ nhạt, nhưng hình ảnh người phụ nữ vẫn được coi trọng và giữ vị trí xứng đáng trong sinh hoạt văn hóa truyền thống, đặc biệt là nơi thờ tự. niềm tin tôn giáo. Trong tín ngưỡng dân gian, người Việt luôn tôn thờ phụ nữ và gọi nữ thần là Thánh Mẫu, một số nữ thần còn được tôn là Quốc Mẫu như Quốc Mẫu Âu Cơ, Quốc Mẫu Tây Thiên. Tín ngưỡng Tam phủ (thờ Mẫu Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thủy / Thảo) và Tứ phủ, cộng với miếu thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh được thờ rộng rãi trong làng, là tín ngưỡng ăn sâu của người Việt. Ở nhiều vùng miền trên đất nước Việt Nam đều có tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân gọi là Bà mẹ xứ sở. Đó là Bà Chúa Xứ trên núi Sam ở thành phố Châu Đốc (An Giang), Linh Sơn Thánh Mẫu trên núi Bà Đen (Tây Ninh), Mẹ Thiên Y A Na của người Chăm ở Tháp Bà, thành phố Nha Trang (Khánh Hòa). , nữ thần Poh Nagar trong các tháp của người Chăm miền Trung. Người Việt Nam du nhập các tôn giáo ngoại lai vào văn hóa Việt Nam đã có khuynh hướng đề cao phụ nữ. Phật vào Việt Nam thành Phật. Bà Man Nương ở vùng Dâu (Bắc Ninh) trở thành Phật Mẫu của dân tộc Việt. Các gia đình Công giáo dành một chỗ trong nhà để treo ảnh Đức mẹ đồng trinh. Những người phụ nữ đã hy sinh cho đất nước và nhân dân hàng nghìn năm trước đã trở thành những liệt sĩ, những người làm gương cho con cháu như Bà Trưng, ​​Bà Triệu, … Trong thời hiện đại, hình ảnh người mẹ vì nước được tôn kính và dựng lên như một pho tượng. . Mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam, Mẹ Sót ở Đồng Hới (Quảng Bình)… Đền thờ nữ liệt sỹ Võ Thị Sáu ở Côn Đảo, đền thờ mười cô gái thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh), đền thờ Thanh niên xung phong Hang Tấm Cơ (Quảng Bình) … Người ta đã đúc kết về vai trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam: “Phép của mày không bằng của nàng”, trong một mối quan hệ hòa thuận, Dân chủ: “Thuận vợ thuận chồng thì đông. bồn địa cũng sẽ khô cạn ”.

6. Văn hóa tập trung vào nông dân, xa rừng, nhạt màu vùng biển.

Đặc điểm này khá nổi bật trong văn hóa Việt Nam. Cha ông ta quan niệm “công nông là gốc), suy nghĩ rất thực tế:“ Tiên sinh nông nghiệp, hết lúa thì làm nông, thứ nhất làm nông ”. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp trồng trọt và chăn nuôi, khai thác tiềm năng của đất đai để làm ra sản vật nuôi sống con người, tổ chức các hoạt động văn hóa là ý thức thường trực của người Việt Nam, là phương châm “phi lợi nhuận”. canh tác bấp bênh “. Người Việt Nam chọn các châu thổ phù sa màu mỡ và các đồng bằng chân đồi ven biển làm nơi sinh sống và tổ chức làng xã. Những thành tựu của văn hóa Việt Nam thể hiện rõ tư tưởng trọng nông. Những làng quê Việt Nam giàu truyền thống, giữ gìn thuần phong mỹ tục. được tổ chức chặt chẽ là những làng nông nghiệp trên vùng đất phì nhiêu, văn hoá kết tinh hệ thống tri thức về tự nhiên và xã hội về trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm. ra đồng, trâu cày cùng ta, Cày vốn làm ruộng, ta là trâu, ai gánh việc nấy ”;“ Trên cạn Ở ruộng sâu, chồng cày, vợ cấy trâu cày bừa. Nhiều câu ca dao hay đã nảy sinh từ môi trường lao động nông nghiệp: “Hỡi nàng tát nước bên bờ, hỡi ánh trăng vàng”. Lễ hội Làng – một lễ hội dân gian truyền thống thể hiện tinh thần cộng đồng, sự đồng cảm, thủy chung của dân làng, trong đó có nhiều yếu tố thuần nông. Văn hóa ẩm thực của người Việt có nền tảng cơ bản từ nông nghiệp. Trân trọng đất nông nghiệp vì lẽ sống “tấc đất tấc vàng”, “người là hoa của đất”. Người Việt bảo nhau đắp hàng nghìn km đê ngăn lũ, khơi thông hàng trăm km kênh, mương để điều tiết nước cho trồng trọt và chăn nuôi. Những con đê, con kênh, con mương đó là biểu tượng của sức mạnh toàn dân, là biểu tượng của nền văn minh nông nghiệp của dân tộc Việt Nam.

Xét trong tiến trình lịch sử, người Việt Nam có xu hướng xa rừng, hướng phát triển từ rừng xuống đồng bằng, châu thổ. Rừng là nơi làm ăn khó khăn, nơi phát sinh dịch bệnh, nơi “ma thiêng, nước độc”.

Người Việt Nam là chủ nhân của một đất nước có diện tích biển gấp ba lần đất liền, nhưng tiềm năng, thế mạnh này chưa được khai thác và phát huy. Nhìn chung, văn hóa của người Việt Nam thể hiện tư tưởng ứng xử thận trọng trước biển cả. Nghề biển phát triển trong một bộ phận dân cư ở miền Trung, nơi đất đai bạc màu, khó đảm bảo sinh kế. Họ đánh bắt cá biển về làm khô, muối và làm mắm thành thương phẩm để trao đổi với các vùng khác. Biển không lường được những hiểm nguy. Những người chồng đi biển gặp sóng to gió lớn, lật úp thuyền không về, kết quả là những người vợ trẻ ôm con hóa đá chờ chồng (Hòn Vọng Phu). Từ miền Trung trở vào Nam, có rất nhiều làng chài tổ chức lễ hội Ngư Ông để cầu cá heo biển cứu giúp cuộc sống của ngư dân trên biển khi gặp khó khăn. Ngư dân Việt Nam chủ yếu đánh bắt ven bờ (ven bờ) thận trọng ra khơi. Đây là đặc điểm “biển sáng” của người Việt.

Xem thêm :  Hướng dẫn cách cười đẹp cho người môi dày

7. Nền văn hóa đa sắc tộc, thống nhất trong đa dạng

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc anh em), trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số nên văn hóa người Kinh giữ vai trò chủ đạo. Lịch sử phát triển văn hóa của người Việt Nam đã khẳng định sự tự nguyện tôn trọng, cởi mở, giao lưu và đồng hóa văn hóa giữa các dân tộc, chống lại những biểu hiện kỳ ​​thị, cưỡng ép văn hóa của dân tộc này đối với nhân dân. với các quốc gia khác. Nền văn hóa đa dân tộc đã tạo ra tiềm năng, thế mạnh để phát huy sức mạnh mềm văn hóa của quốc gia trong quan hệ quốc tế, tăng cường quan hệ hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia.

Sự vận động của văn hóa Việt Nam trong tiến trình lịch sử đã thể hiện rất rõ tính thống nhất của một nền văn hóa quốc gia – dân tộc. Mặc dù có nhiều dân tộc di cư vào lãnh thổ Việt Nam ở các thời điểm lịch sử khác nhau, có người đến sớm hàng nghìn năm, có người mới du nhập vài trăm năm, nhưng khi chọn Việt Nam làm nơi sinh sống, các dân tộc đều có chung cội nguồn tổ tiên, là đồng bào, nhận rõ quốc gia – dân tộc phải có cương lĩnh rõ ràng, có người lãnh đạo đại diện cho nhân dân quản lý đất nước. Thống nhất quốc kỳ, quốc huy, phù hiệu, quốc ca … Thống nhất quy chế nhà nước, lấy tiếng nói của người Kinh làm ngôn ngữ chung trong giao tiếp, quy định chữ quốc ngữ trong từng thời kỳ lịch sử. Thống nhất tư tưởng và thể chế quản lý xã hội và hành vi của con người để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nền văn hóa đa dân tộc đã tạo nên một nền văn hóa đa dạng về các yếu tố và hình thức biểu hiện. Nhìn vào bất kỳ yếu tố văn hóa nào như ăn, ở, mặc, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, văn học, nghệ thuật, tổ chức xã hội… chúng ta có thể dễ dàng tìm hiểu bất kỳ yếu tố văn hóa nào. nhận ra những biểu hiện riêng, độc đáo của từng dân tộc. Đó là những dấu hiệu để nhận biết văn hóa của nhau. Khi các sắc thái văn hóa của mỗi dân tộc được hòa nhập vào nền văn hóa dân tộc thì nền văn hóa Việt Nam mới thực sự đa dạng, thực sự là một vườn văn hóa phong phú, nhiều màu sắc và hương vị.

8. Một nền văn hóa cởi mở, thích nghi và hài hòa của các nền văn minh nhân loại

Việt Nam nằm ở vị trí quan trọng ở phía Tây Thái Bình Dương, phía Đông bán đảo Đông Nam Á, phía Nam giáp lục địa và phía Bắc quần đảo Đông Nam Á. sự biến đổi thế giới. Trong lịch sử phát triển của dân tộc, Việt Nam đã tiếp thu bốn dòng văn hóa / văn minh nhân loại. Đó là văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Đông, Tây phương. Nhìn vào biểu hiện của văn hóa làng xã, chúng ta cho rằng văn hóa Việt Nam đang có xu hướng trì trệ, khép kín, tự chủ. Nhưng xét về khía cạnh quốc gia-dân tộc trong việc ứng xử với các trào lưu văn hóa lớn của nhân loại, những dấu hiệu thể hiện trong văn hóa Việt Nam chứng tỏ đây là một nền văn hóa mở. Người Việt Nam tích cực chấp nhận tôn giáo và thể chế văn hóa của Ấn Độ giáo (Ấn Độ giáo), Phật giáo (các dòng Tiểu thừa và Đại thừa), Nho giáo (còn gọi là Nho giáo), Lão giáo (còn gọi là Nho giáo) và Lão giáo. tiên nữ và phù thủy), Hồi giáo (chính thống và không chính thống), Thiên chúa giáo (hay còn gọi là Công giáo, Thiên chúa giáo), Tin lành. Người Việt Nam tiếp nhận các tôn giáo thế giới, một mặt thích ứng, mặt khác giải quyết những bất cập không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Tiếp nhận các tôn giáo thế giới theo phương châm bảo tồn văn hóa dân tộc và dân tộc hóa các tôn giáo thế giới. Phật giáo du nhập đã biến tượng Phật thành Phật. Một loại Phật được dân gian ví như Phật Mẫu Man Nương ở vùng Dâu. Xây dựng Phật học đường Việt Nam: Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Người Chăm ở miền Trung đã sáng tạo ra tôn giáo đa thần Chăm Bàni kết hợp tín ngưỡng Bà la môn với tín ngưỡng, phong tục dân gian của người Chăm và Hồi giáo không chính thống. Đạo giáo từ Trung Quốc vào Việt Nam được phát sinh thành dòng Đạo giáo nội địa “Tháng Tám giỗ Cha (Thánh Trần Hưng Đạo), tháng Ba giỗ Mẹ (Thánh Liễu Hạnh)”. Người Công giáo, trong nhà vừa thờ Chúa vừa thờ tổ tiên. Đạo Cao Đài ở Tây Ninh tập trung thờ Mẫu, xung quanh thờ các vị tôn túc, danh nhân trên thế giới.

Một đặc điểm dễ thấy là người Việt đã di thực hài hòa vào các nền văn minh của loài người. Có ý kiến ​​cho rằng: Người Việt Nam theo đạo Phật không đậm như người Campuchia, người theo đạo Nho không đậm bằng người Hàn Quốc, người theo đạo Thiên Chúa không đậm bằng người Philippines, người theo đạo Hồi không đậm như người Indonesia. Một nét văn hóa cởi mở nhưng tế nhị, khéo léo, uyển chuyển, tiếp thu những cái tốt, phù hợp, không cực đoan, lấn át, thể hiện cách ứng xử của người Việt Nam: “Ăn mày, ngồi có hướng”, “Làm nên việc”. trai vừa nói hai nước ”. Triết lý dung hòa, tiết độ, hợp tình, hợp lý, cẩn trọng, giữ gìn là đặc điểm của người Việt Nam khi tiếp xúc với các nền văn minh nhân loại.

Khám phá:

Hội nghiên cứu thơ Đường Trung Quốc

Tại sao mọi người lại chảy nước dãi

Lịch sử truyền thông xã hội và tác động của nó với kinh doanh

Đánh giá post

Album Chầu văn việt nam

Chầu văn Việt Nam
Thực hiện : Câu lạc bộ Bảo tồn Chầu Văn Việt nam
Diễn Đàn Hát Văn Việt Nam : www.hatvan.vn
Mail: hatvanvn@gmail.com
Văn thờ : Hồng Tĩnh Chén Hà Vinh
Quan Lớn đệ Tam : Văn Ty
Quan Lớn Đệ Ngũ : Công Mạnh
Chầu đệ nhị : Khắc Tư
Chầu Lục : Văn Hưởng
Chầu đệ Tứ : Văn Chung
Chầu Bé Bắc Lệ : Thanh Ngoan Tuyết Tuyết
Quan hoàng Bơ : Trọng Kha Bá Cao Văn Tuất
Quan hoàng Bảy : Quốc Thi
Quan hoàng Mười : Trọng Quỳnh Khắc Tư
Cô Đôi Thượng : Thanh Long Ngọc Châu
Cô Bơ Bông : Văn Chung
Cô Chín Sòng : Văn Đồng
Cô Bé : Văn Đậu
Cậu Bé : Hà Vinh

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tin tức
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tin tức Tại Website Pkmacbook.com