Kinh ngiệm thơ và hành trình tinh thần của hàn mặc tử

biểu tượng trăng, hồn, máu trong thơ hàn mặc tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.6 KB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LÊ THU HƢƠNG

BIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁU
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, tháng 05 năm 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LÊ THU HƢƠNG

BIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁU
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Công Tho

Sơn La, tháng 05 năm 2014
LỜI CẢM ƠN

Khóa Luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của
Thạc sĩ Nguyễn Công Tho – Giảng viên bộ môn Văn học Việt Nam – Khoa
Ngữ văn, sự quan tâm của phòng Nghiên cứu khoa học, Ban chủ nhiệm khoa
Ngữ văn, Thư viện nhà trường cùng các thầy cô giáo bộ môn tiếng Việt, Trường
Đại học Tây Bắc.
Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ đó! Đặc biệt xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Công Tho người đã tận tình

chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Lê Thu Hƣơng

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 5
5. Ý nghĩa của đề tài 6
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 6
7. Cấu trúc của đề tài 7
Chƣơng 1: NHƢ
̃

NG VÂ
́
N ĐÊ
̀
CHUNG 8
1. Vài nét về Hàn Mặc Tử 8
2. Khái niệm biểu tượng và biểu tượng Trăng, Hồn, Máu 11
2.1. Khái niệm biểu tượng 11
2.2. Biểu tượng Trăng 12
2.3. Biểu tượng Hồn 13
2.4. Biểu tượng Máu 15
Chƣơng 2: BIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁU TRONG THƠ HÀN MĂ
̣
C
TỬ 18
1. Biểu tượng Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử 18
1.1.Trăng – mối lương duyên kì ngộ 18
1.2. Trăng – người bạn tâm giao 22
1.3. Trăng – huyền ảo, ma quái, rùng rợn 26
1.4. Trăng – nhân vật huyền thoại 28
2. Biểu tượng Hồn 30
2.1. Hồn – biểu tượng của sự sống 30
2.2. Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử mang màu sắc Thiên Chúa giáo 32
2.3. Hồn là tâm trạng, cảm xúc 33
3. Biểu tương Máu trong thơ Hàn Mặc Tử 38
3.1. Máu – nguồn sinh lực của sự sống 38
3.2. Máu – ẩn dụ về cái chết 41
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có số phận kì lạ và đau thương. Đường thơ
bất tận và đường đời ngắn ngủi của Hàn Mặc Tử chập nhau trong khoảng mười
năm, để lại những tiếng thơ bất hủ cho hậu thế. Hàn Mặc Tử chính thức gia nhập
phong trào “Thơ mới” năm 1936 với tập thơ Gái quê, ông được xem là nhà thơ
lạ nhất trong phong trào “Thơ mới” (1932-1945), người cai trị Trường thơ Loạn
của các nhà thơ Bình Định. Trong bài viết Hàn Mặc Tử, anh là ai? (Văn Nghệ
Bình Định – 1988 – Số 18 (Xuân Mậu Thìn) nhà thơ Chế Lan Viên đã phân tích
rất hay về Hàn Mặc Tử khiến người đọc phải đặt ra câu hỏi: Không biết sự tồn
tại của ông là huyền thoại hay hiện thực? Ông là thiên tài hay là kẻ mê hoặc điên
loạn?. Nhưng dù Hàn Mặc Tử là người như thế nào, có một điều không thể phủ
nhận: ông đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử văn chương Việt
Nam thế kỉ XX.
Trên hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử, thơ ca chính là sự cứu rỗi của
linh hồn để anh hòa với thiên nhiên, tìm đến cõi vĩnh hằng của thể xác. Thế giới
thi ca của Hàn Mặc Tử luôn ám ảnh bởi các yếu tố Trăng, Hồn, Máu. Đó là
những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, xuyên suốt trong cảm hứng thi ca của Hàn
Mặc Tử, chính những điều ấy đã tạo ra một giọng thơ đặc biệt và không chia sẻ
âm hưởng với bất kì ai.
Hơn một nửa thế kỉ đã trôi qua từ khi chúng ta phải đau xót tiễn đưa một
tài năng thơ lạ lùng, phức tạp đầy bí ẩn trong phong trào thơ mới 1932 – 1945.
Đó là nhà thơ Hàn Mặc Tử. Bên bờ biển Quy Nhơn xanh thẳm với muôn ngàn
con sóng vỗ dào dạt, cái nắng quyện vào cái gió của mảnh đất miền Trung mặn
mà, chính là nơi thi sĩ đi vào cõi vĩnh hằng, giã từ trần gian với một tâm hồn
thanh khiết. Ông chỉ có mặt trên cuộc đời với khoảng thời gian ngắn ngủi trong
quằn quại đau đớn với căn bệnh quái ác nhưng ông đã sống và cống hiến hết
mình cho khát vọng văn chương làm nên một sức sáng tạo kì lạ: Tôi đã sống
mãnh liệt và đầy đủ, sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn.

Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu tôi, đã vui, buồn, giận hờn đến gần

2
như đứt sự sống. Một nguồn thơ được nuôi dưỡng bằng tất cả tinh huyết, bằng
giọt lệ cạn khô, bằng giằng xé đau đớn trong bệnh tật để say sưa rung động trong
một trái tim khổ đau.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã hơn một lần khẳng định thiên tài hiếm thấy này:
“Tử là một đỉnh cao lòa chói trong văn học thế kỉ thậm chí qua các thế kỉ.
Trước không có ai, sau không có ai Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua
bầu trời Việt Nam với cái đuôi lòa chói rực rỡ của mình” [16].
Ngôi sao ấy đã bay vào vũ trụ bao la, đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vệt sáng
của nó vẫn còn chứa một sức đê mê huyền ảo thấp thoáng hiện lên trong từng thi
phẩm tạo nên sức cuốn hút lạ kì. Những cung đàn vui, buồn, giận hờn, sự quằn
quại và đau đớn đến tê liệt thể xác và tâm hồn, những khát khao và những lời
cầu nguyện đều in dấu trong thơ ông.
Những biểu tượng trong thơ Hàn Mặc Tử được coi là những biểu tượng
tượng lạ lùng, đầy bí ẩn. Thơ ông đã đi từ cuộc đời đến những cõi xa xôi, mơ
mộng, huyền ảo. Thơ đem đến cho tâm hồn Hàn Mặc Tử những phút giây sáng
láng, đê mê, một sức sáng tạo tràn đầy lúc êm dịu, lúc day dứt, lúc mãnh liệt như
những con sóng ào ạt xô bờ, lúc tê tái, buốt giá như băng tuyết. Nghiên cứu về
những biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử là ngược dòng quá
khứ trở về với cõi xa xưa trong cuộc đời một con người bất hạnh, tìm về cội
nguồn trong sự sáng tạo bất diệt và nguồn sống mãnh liệt của thơ ca.
Với những lí do như đã trình bày tôi mạnh dạn chọn vấn đề Biểu tượng
Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử làm vấn đề nghiên cứu. Với hi vọng
kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hữu ích trong việc tìm hiểu thế giới thơ Hàn
Mặc Tử một cách có hiệu quả hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có thể nói từ trước tới nay việc nghiên cứu về Hàn Mặc Tử là một hoạt
động diễn ra khá sôi nổi trong giới phê bình văn học. Về biểu tượng Trăng, Hồn,

Máu trong thơ Hàn Mặc Tử mặc dù đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm
xem xét ở góc độ này hoặc góc độ khác nhưng do mục đích của từng công trình
khác nhau nên sự quan tâm chưa được sâu rộng.

3
Năm 1941, công trình nghiên cứu của Trần Thanh Mại Hàn Mặc Tử thân
thế và thi văn một công trình có quy mô và chuyên biệt đầu tiên viết về Hàn
Mặc Tử. Tác giả đã đi sâu phân tích từng cử chỉ tính tình của thi sĩ từng giai
đoạn trong cuộc đời nhà thơ và coi đó như “những cái vòng của sợi dây chuyền
để mà ảnh hưởng cái đích mà người viết sách muốn đi đến để cắt nghĩa thi
phẩm của nhà thơ” [8]. Trần Thanh Mại đã đi sâu nghiên cứu theo một hướng
mới là tiếp cận nghiên cứu số phận đời tư đau khổ, bệnh hoạn, những mối tình
dở, những đêm trăng sáng, màu trắng tinh khiết đến hãi hùng của dòng sông, của
lấp loáng bờ cát trắng trải dài. Tuy nhiên trong công trình nghiên cứu của ông
vẫn mang những trăn trở mà chính ông cũng không thể lí giải hết được. Nhưng
công trình nghiên cứu của ông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì đã đem đến cho
độc giả một cái nhìn tổng quan nhất về thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên trong việc
sưu tầm và công bố những tư liệu về Hàn Mặc Tử của ông có đôi chút sơ xuất
nên Quách Tấn đã phát đơn kiện và vụ án Hàn Mặc Tử gây xôn xao dư luận và
có không ít những bất bình trong giới văn nghệ sĩ.
Với tác giả thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh và Hoài Chân thực sự đã rất
nhạy cảm tinh tế khi đi vào thế giới thơ Hàn Mặc Tử: “ngót một tháng trời tôi
đã đọc thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đã đi theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vở
kịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi đã mệt lả… chính những lời Hàn Mặc Tử
nói trong tựa “thơ điên”: “vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến càng đi
xa càng ớn lạnh”[11].
Có rất nhiều công trình nghiên cứu cùng những khẳng định đánh giá của
các nhà nghiên cứu văn học trước năm 1945. Đó là những đóng góp đầu tiên
khai phá mở đường cho độc giả đi vào thế giới thơ kì lạ, là những viên gạch đầu
tiên xây lên bức tường thành vĩ đại trong hồn thơ Hàn Mặc Tử.

Nguyễn Tấn Long trong Việt Nam thi nhân tiền chiến đã nói về những
thẩm định của các nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử: “có những kẻ chiêm ngưỡng
thơ Hàn Mặc Tử như một tâm hồn cảm xúc đầy âm nhạc và màu sắc. Có kẻ
mượn phân tâm học để mổ xẻ thơ Hàn Mặc Tử bằng kết tinh của nhân vật bệnh

4
hoạn, có kẻ ca tụng thơ Hàn Mặc Tử như một sức sống chân thật và mãnh liệt
của cuộc đời” [7].
Ta có thể nhìn lại bức tranh toàn cảnh về các công trình nghiên cứu thơ
Hàn Mặc Tử theo những khuynh hướng sau:
Thứ nhất là nhóm các bài viết theo lối phê bình khách quan:
Những công trình nghiên cứu theo hướng này chủ yếu thiên về đời tư với
căn bệnh hoạn của Hàn Mặc Tử và những mối tình chớm nở của thi sĩ mà rất ít
nói đến sự nghiệp văn chương tiêu biểu là những công trình nghiên cứu của
Hoàng Trọng Miên Những ngày sống chung với Hàn Mặc Tử ở Sài Gòn, Ngọc
Sương với Tưởng niệm Hàn Mặc Tử Phan Công Thiện với Một định mệnh đeo
riết bên mình Hàn Mặc Tử và Xin chút long để lại lối xưa của Đào Trường
Phúc…
Thứ hai là nhóm các bài viết về Hàn Mặc Tử trong mối quan hệ với một
số tôn giáo như Thiên Chúa giáo, đạo Phật, đạo giáo.
Về phương diện này đã gây ra nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề “chất
Đạo” và “chất Đời” trong thơ Hàn Mặc Tử. Những công trình nghiên cứu vẫn
chỉ dừng lại ở mức đặt ra vấn đề đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử mà chưa thể lí
giải được vì sao lại có sự hài hòa giữa một bên là yêu cầu đức tin tuyệt đối và
một bên là sự phóng túng của tâm hồn thi sĩ khát khao giao cảm với cuộc đời.
Với công trình Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử Đặng Tiến đã có phần hơi
cực đoan khi nhận định: Toàn bộ thi phẩm của Hàn Mặc Tử là tiếng vọng của
thánh tự, Hàn Mặc Tử đã phải sống cuộc đời đau thương của một người tín đồ
để được tồn sinh sau khi cái chết được phục sinh trong thế giới khải huyền.
Theo cách hiểu quan điểm tôn giáo thần bí siêu hình Dũng Lạc Trần Cao

Tường đã chọn hướng tiếp cận hiện tượng Hàn Mặc Tử để nhận ra cái huyền bí
ở bên kia cõi chết. Tuy chưa có sức thuyết phục về mặt khoa học nhưng cũng là
một hướng nghiên cứu mới
Bước sang thập kỉ 80, không khí của thời kì đổi mới như đem một luồng
sinh khí mới mạnh mẽ và khoáng đạt hơn so với thời kì trước.

5
Lê Đình Kị cho rằng trong Thơ Điên có nỗi đau của riêng Hàn Mặc Tử
hòa vào nỗi đau chung của đất nước. Đây thực sự là một cái nhìn hết sức mới
mẻ về Hàn Mặc Tử và Thơ Điên.
Khuynh hướng nghiên cứu theo kiểu sưu tầm tư liệu về cuộc đời cũng như
thơ ca Hàn Mặc Tử là khuynh hướng tiêu biểu. Với công trình nghiên cứu của
Phạm Xuân Tuyển Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử (1997). Sau bao tháng ngày
tìm về với lối xưa, chốn cũ đi theo những dấu chân, những con đường mà nhà
thơ đã đi qua tác giả Phạm Xuân Tuyển đã thu nhặt tập hợp những thi liệu quý
giá ấy để làm nên công trình tương đối trọn vẹn về bức chân dung cuộc đời Hàn
Mặc Tử. Có thể nói đây là một tài liệu rất quý phục vụ cho việc nghiên cứu và
tìm hiểu về tác giả Hàn Mặc Tử.
Ngoài ra, còn một số bài viết rất có ý nghĩa cần nói tới như: Hàn Mặc Tử,
hương thơm và mật đắng của Trần Thị Huyền Trang (1991), Hàn Mặc Tử, thi sĩ
đồng trinh của Nguyễn Thụy Kha (1993)…
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sẽ tập trung khảo sát những biểu tượng Trăng, Hồn và
Máu trong thơ Hàn Mặc Tử (biểu hiện thông qua những hình tượng thơ, cảm
hứng nghệ thuật, hình thức nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong thơ ), từ đó để
làm rõ: Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu trong thơ Hàn Mặc Tử.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dựa trên sự khảo sát một số tác phẩm của nhà thơ tập: Thơ Điên, Lệ
Thanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí, Cẩm

châu duyên, Duyên kì ngộ cùng một số đoạn văn, thư từ do Hàn Mặc Tử viết
và được sưu tầm lại.
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích
Mục đích của đề tài là trên cơ sở nguồn ngữ liệu thơ Hàn Mặc Tử tìm hiểu
thêm để làm rõ thêm ý nghĩa các biểu tượng Trăng, Hồn và Máu trong thơ Hàn
Mặc Tử.

6
4.2. Nhiệm vụ
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, nhiệm vụ đề tài hướng tới
các nội dung sau:
– Nghiên cứu lí thuyết về biểu tượng Trăng, Hồn, Máu.
– Thấy được một cách tổng quan về hệ thống biểu tượng Trăng, Hồn, Máu
trong thơ Hàn Mặc Tử.
5. Ý nghĩa của đề tài
5.1. Ý nghĩa lí luận
Nghiên cứu đề tài “Biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc
Tử”, tôi chọn cách tiếp cận với thế giới biểu tượng nghệ thuật mới mẻ trong
dòng văn học đương đại, khai thác những đặc sắc và những đặc trưng thẩm mỹ
của một phong cách thơ độc đáo. Với hi vọng rằng sau khi nghiên cứu thành
công đề tài này sẽ góp phần nhận diện thơ Hàn Mặc Tử sâu hơn, rộng hơn và
đưa ra được cái nhìn đầy đủ có hệ thống về tác giả
5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Tôi hi vọng với đề tài này có thể sử dụng làm một trong những tư liệu
tham khảo cho những ai yêu thơ Hàn Mặc Tử, những ai quan tâm tới tác giả văn
học này một lần nữa được sống trong thế giới thơ ông và chiêm nghiệm về nó
trong kiếp nhân sinh của cuộc đời.
Có thể sẽ làm tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy ở trường phổ thông sau
này của tôi cũng như độc giả đón đọc nó.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
Đi sâu nghiên cứu vấn đề Biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn
Mặc Tử là một vấn đề không hề đơn giản. Để tiếp cận và nghiên cứu tìm ra nét
mới và để tránh sự trùng lặp trong đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp
cơ bản sau:
6.1. Phƣơng pháp phân tích
Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong khóa luận
này. Từ những tài liệu nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu cùng sự
tìm tòi sáng tạo của bản thân, tôi vận dụng đưa vào đề tài. Qua đây chúng ta sẽ thấy

7
rõ hơn những nét đặc sắc trong biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử,
thấy được những khám phá sáng tạo phi thường của nhà thơ.
6.2. Phƣơng pháp so sánh
Trong quá trình phân tích Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu trong thơ
Hàn Mặc Tử, tôi tiến hành liên hệ, so sánh điểm khác biệt của ông với các nhà
thơ khác. Như vậy sẽ giúp cho đề tài thêm sức thuyết phục và góp phần khẳng
định tài năng cùng những đóng góp của Hàn Mặc Tử cho nền văn học nước nhà.
6.3. Phƣơng pháp hệ thống
Người viết nhận thấy rằng sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử là một chỉnh thể
nghệ thuật trọn vẹn và mang tính hệ thống. Vì thế, khi nghiên cứu người viết đặt
nó trong một hệ thống chung theo một trật tự nhất định.
6.4. Phƣơng pháp thống kê – phân loại
Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những nhận xét về thơ Hàn
Mặc Tử có chứng cứ cụ thể. Một mặt nào đó giúp cho việc so sánh đối chiếu có
thêm sức thuyết phục.
7. Cấu trúc của đề tài
Trong đề tài này ngoài phần mở đầu, kết luận, phần mục lục và thư mục
tham khảo còn có 2 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề chung

Chương 2: Biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử

8
Chƣơng 1: NHƢ
̃
NG VÂ
́
N ĐÊ
̀
CHUNG

1. Vài nét về Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới,
Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo
Công giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báo
Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc
Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc
sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa
Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ
là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinh
hạ được 8 người con:
1- Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn
Mặc Tử trên con đường thơ văn.
2- Nguyễn Thị Như Lễ.

3- Nguyễn Thị Như Nghĩa.
4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử).
5- Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng
vào ngày 13-02-1959).
6- Nguyễn Bá Hiếu.
7- Nguyễn Văn Hiền.
8- Nguyễn Văn Thảo.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học và
thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn Văn
Toản làm thông ngôn, ký lục thường di chuyển nhiều nơi, nên Hàn Mặc Tử cũng
đã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn
(1921-1923), Pellerin Huế (1926).
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có
tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội
Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới

9
thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Việc xướng họa thơ văn với
nhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệu
Phong Trần, nổi tiếng ngay lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấn
tượng của một thi sĩ mới. Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tôn
xưng là tiên sinh. Tiếp sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu.
Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cả
những ai có mối quan hệ mật thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, Hàn
Mặc Tử thường xuyên liên hệ thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ của
những người bạn khác ra cho ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi,
cuối cùng đã quyết định gạt tên chàng ra khỏi danh sách những người được bảo
trợ sang Pháp du học. Tiếp đó, Sogny, Chánh sở mật thám Huế gửi công văn
vào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn là
Véran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm cho gia đình hết sức lo lắng. Người

anh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, một
người quen thân với gia đình chàng xưa nay, can thiệp. Từ đó chính quyền mới
để ông được yên.
Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ sang một ngả khác. Từ
đây, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời gian này, tình hình
kinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan. Chàng làm thêm công
việc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc điền Quy Nhơn. Nhưng công việc
này chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo, giấy viết và tem thư
gửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà của chàng đang ở. Nợ
nần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn lập nghiệp, năm
đó ông 21 tuổi.
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công
luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai
người bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp
Mộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện
những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không

10
quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Cho
đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập Gái quê, rồi đi Huế, Sài Gòn, Quảng
Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép
cho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông
mới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một
loại bệnh thuộc loại “phong ngứa” gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ
không ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 – 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ
dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào
thét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa,
Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình
như sau: “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức

Xem thêm :  Hàm số và đồ thị hàm số y = a.x (a ≠ 0). phương pháp giải các dạng bài tập

khỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc
“găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng” [12].
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến
thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học
(thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ.
Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho
rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan
Thiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng
ông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồi
sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn
Hansen gây nên.
Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên
bao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì
Hàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó
với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm,
đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránh
nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cần
phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnh
viện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc

11
Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh
nhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử
không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết là
do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang băm
trước khi nhập viện phong Quy Hòa. Hàn Mặc Tử bỏ tất cả quay về Quy
Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân
1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà
thương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.
Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ

nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông – có những người
ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ
biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương,
Thanh Huy, Mỹ Thiên.
Hàn Mặc Tử để lại cho đời một số lượng thơ và kịch thơ khá lớn với
nhiều tập thơ nổi tiếng Thơ điên, Lệ Thanh thi tập, Thượng thanh khí, Cẩm châu
duyên. Thơ anh trước không ai có, sau không ai có. Hàn Mặc Tử như một ngôi
sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình (Phan
Cự Đệ). Với lối thơ kinh dị lạ thường, đặc biệt trong tất cả các tập thơ của Hàn
Mặc Tử đều chủ yếu nói về Trăng. Trăng như một người bạn có linh hồn biết
cười, biết khóc, biết gào thét, đôi khi lại như là người tình trong mộng.
2. Khái niệm biểu tƣợng và biểu tƣợng Trăng, Hồn, Máu
2.1. Khái niệm biểu tƣợng
Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán (chủ biên), biểu tượng là
khái niệm dùng để chỉ một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác và cho
con người hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu, sau khi tác động của sự vật
vào giác quan đã chấm dứt. Trong nghĩa hẹp, biểu tượng là “một phương thức
chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khả
năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy,
vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa với con người

12
và cuộc đời” [6; 24]. Trong nghĩa rộng, biểu tượng là “đặc trưng phản ánh cuộc
sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật” [6; 24].
Biểu tượng còn được hiểu là cổ mẫu (mẫu gốc, siêu mẫu, siêu tượng…).
Còn trong Từ điển biểu tượng thế giới thì diễn giải “các mẫu gốc hiển hiện ra
như những cấu trúc tâm thần gần như phổ biến, bẩm sinh hay được thừa kế, một
thứ ý thức tập thể; chúng thể hiện qua các biểu tượng đặc biệt chứa đầy một
công suất năng lượng lớn. Chúng đóng một vai trò động lực và thống nhất đáng
kể trong sự phát triển nhân cách” [2]. Theo các tài liệu chúng tôi có được, khái

niệm cổ mẫu (archetype) này được nhà phân tâm học người Thuỵ Sĩ Carl Gustav
Jung (1875 – 1961) nghiên cứu và đề xuất. Jung đã phát triển thuyết vô thức của
Sigmund Freud (1856 – 1939, người Áo) và đưa ra một cái nhìn mới về hệ tâm
thức con người. Trong đó vô thức tập thể – ngôi nhà xuyên thời đại của cổ mẫu –
là khái niệm cốt lõi [3]. Như vậy cổ mẫu là cấu trúc tinh thần bẩm sinh, cấu trúc
tâm thần gần như phổ biến hoặc thừa kế; và nếu biểu tượng bắt nguồn từ văn
hóa, tôn giáo, lịch sử – những lĩnh vực thuộc về ý thức – của các cộng đồng thì
cổ mẫu hình thành từ nguồn cội xa xưa, quan trọng sinh tạo trong vô thức tập
thể . Và đọc cổ mẫu là cách nhìn tác phẩm văn chương từ bên ngoài. Nhưng
cách nhìn từ bên ngoài này không quy chiếu những chuẩn mực và tiêu chí có
trước vào tác phẩm, để mà giải thích nó. Đọc cổ mẫu là đi tìm, chăm chú ghi
nhận các hiện tượng cùng những cuộc gặp gỡ thường rất bất ngờ của chúng
trong tác phẩm, xuyên qua thời gian và không gian, tra vấn và thử trả lời.
2.2. Biểu tƣợng Trăng
Từ lâu Trăng đã là một biểu tượng văn hóa lớn. Theo quan niệm Á Đông
Trăng là biểu tượng của điềm lành, hạnh phúc. Đạo giáo cho rằng, mặt trăng là
nơi cư trú của chú thỏ ngọc, đang nghiền thuốc trường sinh ở gốc đa. Trong cách
hiểu như vậy, trăng là nơi chứa đựng nguồn sống bất tử. Trăng đã trở thành chủ
đề chính trong nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật và cảm hứng cho vô số
những thứ khác. Nó là môtip trong nghệ thuật thị giác, nghệ thuật trình diễn,
thơ, văn xuôi và âm nhạc. Trong nhiều nền văn hóa tiền sử và cổ đại, Trăng
được nhân cách hóa thành Thần Mặt Trăng hay những hiện tượng siêu

13
nhiên khác. Mặt Trăng từ lâu đã được một số người gắn với bệnh điên và sự phi
lý; các từ lunacy (điên rồ) và loony (người điên) có nguồn gốc từ tiếng Latin cho
tên gọi của Mặt Trăng, Luna.
Trong văn học, không biết tự bao giờ, Trăng đã là nguồn cảm hứng bất
tận muôn đời của các thi sĩ văn nhân. Trong cảm quan của người nghệ sĩ, Trăng
không đơn thuần là nguồn sáng trong đêm mà đã trở thành một biểu tượng độc

đáo. Ở đó, nó đã trở thành một âm hưởng đa thanh xoáy sâu vào tâm hồn có sức
ám ảnh, khơi gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình, hạnh
phúc và khổ đau, quê hương và gia đình, tình yêu và thân phận con người…
Trong văn học Trung đại Trăng đã được các nhà thơ vận dụng trong trường liên
tưởng một cách tinh tế, sáng tạo. Có thể đấy là tuổi xuân, hạnh phúc, là vẻ đẹp,
niềm vui, là nỗi buồn cô đơn tuyệt vọng, đôi khi là một người bạn, người tình
yêu dấu Đến văn học hiên đại Trăng không còn được miêu tả theo lối ước lệ
tượng trưng như thời kì trước mà đã được các tác giả thổi hồn vào làm cho nó
thực sự trở thành một chủ thể mang một sức sống mới, một màu sắc cá thể hóa
rõ rệt, cao độ. Trăng cũng như người, biết chờ đợi, hẹn hò, có tâm trạng vui,
buồn, cô đơn khi xa cách… Trăng ở đây đã là em, là nàng, là biểu tượng của cái
đẹp, là nguồn cảm hứng khơi gợi sáng tạo bất tận của các thi nhân. Đọc thơ Hàn
Mặc Tử, quả đúng như nhận xét: “Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao…
linh động lòng người. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũng
trơ tráo và cũng nao nức dục tình…” [11]. Trong thơ Hàn Mặc Tử, Trăng không
những được thi vị hóa, nhân cách hóa như nhiều nhà thơ khác mà còn được hiện
thực hóa ngay trong cái không khí thi vị ấy. Trăng giăng mắc khắp cả không
gian, thời gian của sự sống. Có thể nói Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử đâu còn là
một khách thể mà đã trở thành một bản ngã ở trong thơ. Nó đã hòa quyện vào
từng tế bào nơi cơ thể và độ sâu thẳm của tâm linh. Nó có khả năng vỗ về, yêu
đương, đối thoại như một hiện hữu người. Đúng như ai đó đã nói, Trăng trong
thơ Hàn Mặc Tử được kết tinh như hạt muối, vừa có vị mặn của muối, vừa có vị
mặn của đời.
2.3. Biểu tƣợng Hồn

14
Tùy quan niệm mỗi bộ tộc, mỗi vùng mà Hồn được biểu trưng qua những
hình ảnh khác nhau, có thể dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu sau. Thời Ai Cập cổ
đại, con chim đầu người biểu trưng cho linh hồn của từng cá thể. Hay theo
truyền thống của của người Maya, người chết phải đặt “nằm ngửa duỗi thẳng

chân tay để linh hồn có thể tự do thoát ra khỏi thân xác qua miệng” [2; 451].
Trong Kinh Thánh, hồn chính là Thần Khí mà Thượng Đế thổi hơi vào con
người (làm bằng đất sét) để trao ban sự sống. Còn hầu hết người Á Đông thì
quan niệm “vạn vật hữu linh” tức mọi thứ đều có linh hồn. Nó (linh hồn) có thể
nằm trong con người, con vật, cây cối và thậm chí là những đồ vật vô tri vô giác
như nhà cửa, ấm chén… Từ thuyết trên có thể hiểu một cách đơn giản về linh
hồn con người trong quan niệm của người Á Đông như sau: Con người có hai
phần linh hồn và thể xác. Trong đó, hồn quyết định sự sống của con người. Khi
con người chết đi thì linh hồn rời khỏi xác và trở thành ma (theo văn hóa người
Việt) hay Phỉ (theo quan niệm của Lào, Thái Lan). Trong văn hóa của người
Việt, quan niệm về linh hồn đã có từ rất lâu và được chia làm hai bậc: Hồn và
vía. Vía được hiểu như là những bộ phận gắn trên cơ thể của con người, nó
có chức năng làm công cụ hoạt động của cơ thể sống. Ngoài ra chúng còn là
những bộ phận làm phương tiện thể hiện, bộc lộ cái bên trong của con người khi
giao tiếp với thế giới bên ngoài. Cho nên dân gian có câu nói đôi mắt là cửa sổ
của tâm hồn, là vậy. Còn từ góc độ phân tâm học, cụ thể theo Jung, Hồn là “một
trạng thái tâm lý cần phải được dành cho một sự độc lập nhất định trong khuôn
khổ ý thức…” [2; 452]. Theo quan niệm dân tộc học và sử học về tâm hồn, “nó
ban đầu là một nội hàm thuộc về cá nhân, nhưng nó cũng thuộc về thế giới của
cái linh thiêng, nó là vô thức. Tâm hồn vì thế luôn luôn tự thân là một cái gì đó
vừa trần thế vừa siêu nhiên” [2; 452]. Nhưng chủ yếu, Hồn là biểu tượng của
tâm linh, là hơi thở, là sinh khí của một con người. Nói một cách chung nhất,
Hồn là nguyên khí của một sinh thể. Cùng một dòng chảy bất tận ấy, Hồn trong
thơ Hàn Mặc Tử đã kế thừa và phát triển thành những cái rất riêng, rất lạ. Đọc
thơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ chơi vơi trong ánh sáng lung linh kì ảo của

15
ánh trăng huyền bí, mà còn rùng mình ớn lạnh bởi họ đang chìm ngập trong
vũng cô liêu của một tâm hồn sâu thẳm.
2.4. Biểu tƣợng Máu

Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, thì Máu “tượng trưng cho tất
cả những giá trị liên đới với lửa, với sức nóng và sự sống, gắn với mặt trời”. [2;
566] Ngoài ra Máu được coi là phương tiện truyền dẫn sự sống, là bản nguyên
của sự sinh thành. Máu hòa với nước là hình ảnh chảy ra từ vết thương nơi cạnh
sườn Đức Giêsu Kitô, cùng trong ý nghĩa đó, máu là trường hợp siêu chuyển
thánh thể thành bánh. Máu còn ứng với nhiệt, nhiệt của sự sống và nhiệt của
thân thể. Và cùng với một quan điểm trên “Máu là bản nguyên của thân xác và
là phương tiện truyền dẫn những đam mê” [2; 566]. Với một số dân tộc khác thì
máu là vật dẫn linh hồn. Ngoài ra còn những ý kiến khác nhau về hình ảnh máu.
Nhưng về cơ bản, Máu biểu trưng cho sự sống nhưng cũng hàm ý về cái chết.
Như vậy biểu tượng Máu có hai hàm ý đối lập nhau, sống – chết. Nói đến máu
người ta vừa hi vọng nhưng cũng vừa sợ hãi. Bởi ở đâu có máu, ở đó có sự sống
nhưng ở đâu có đổ máu là nơi đó có hận thù, chết chóc, thương vong….Trong
văn hóa và văn học Việt Nam, Máu còn biểu trưng cho tình ruột thit. Cho nên
mới có câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Máu như thế biểu hiện cho sự
sống, nhiệt huyết và tình yêu.
Ở các tập thơ đầu, hình ảnh máu rất ít, hầu như không được Hàn Mặc Tử
thể hiện trong thơ của mình. Nó bắt đầu xuất hiện và xuất hiện ngày càng nhiều.
Tập thơ Điên Đau thương, đã có 12 bài viết về máu trên tổng số 53 bài thơ. Nói
như Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam thì “Hàn Mặc Tử đi trong
trăng, há miệng cho máu tung ra biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếng
ghê người”[2; 205]. Đọc thơ Điên của ông, ta bắt gặp những câu thơ đầy máu.
Máu trong thơ Hàn Mặc Tử là biểu tượng của sự sống, niềm đam mê và gắn với
mặt trời.

Tiểu kết

16
Hàn Mặc Tử là một tài năng thơ lạ lùng, phức tạp đầy bí ẩn trong phong
trào thơ mới. Ông chỉ có mặt trên cuộc đời với khoảng thời gian ngắn ngủi trong

quằn quại đau đớn với căn bệnh quái ác nhưng ông đã sống và cống hiến hết
mình cho khát vọng văn chương làm nên một sức sáng tạo kì lạ. Những biểu
tượng trong thơ Hàn Mặc Tử được coi là những biểu tượng tượng lạ lùng, đầy bí
ẩn. Thơ ông đã đi từ cuộc đời đến những cõi xa xôi, mơ mộng, huyền ảo. Thơ
đem đến cho tâm hồn Hàn Mặc Tử những phút giây sáng láng, đê mê, một sức
sáng tạo tràn đầy lúc êm dịu, lúc day dứt, lúc mãnh liệt như những con sóng ào
ạt xô bờ, lúc tê tái, buốt giá như băng tuyết. Nghiên cứu về những biểu tượng
Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử là ngược dòng quá khứ trở về với cõi
xa xưa trong cuộc đời một con người bất hạnh, tìm về cội nguồn trong sự sáng
tạo bất diệt và nguồn sống mãnh liệt của thơ ca.
Biểu tượng là khái niệm dùng để chỉ một hình thức của nhận thức cao hơn
cảm giác và cho con người hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu, sau khi tác
động của sự vật vào giác quan đã chấm dứt. Trong nghĩa hẹp, biểu tượng là một
phương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc
biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện
tượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa
với con người và cuộc đời. Trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánh
cuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật.
Trăng không đơn thuần là nguồn sáng trong đêm mà đã trở thành một
biểu tượng độc đáo. Trăng là một âm hưởng đa thanh xoáy sâu vào tâm hồn có
sức ám ảnh, khơi gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình,
hạnh phúc và khổ đau, quê hương và gia đình, tình yêu và thân phận con
người… Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không là một thực thể ngoại giới, một
khách thể của thiên nhiên nữa, mà trăng được nhân tính hóa, quay cuồng trong
những biến ảnh liên tiếp qua cái ống kính vạn hoa của một tâm thức mê sảng
hoảng loạn. Trăng trong vùng khí quyển này là những biến ảnh, trên cái biên
giới xa nhất của cơn mê sảng: trăng trong vực thẳm đọa đày, Trăng đồng thể và
Trăng xuất thể, Trăng sáng trong, Trăng quạnh quẽ cô đơn, trăng yêu ma kì dị,

17

Trăng linh loạn rùng rợn, Trăng âm u – sáng láng, Trăng bám riết giày vò, Trăng
nhức nhối quằn quại, Trăng rên siết, kêu thương, trăng cười, Trăng khóc, Trăng
chạy, Trăng ngã, Trăng tan, Trăng vỡ, Trăng réo gào thảm thiết…
Hồn đã là một biểu tượng lớn trong văn hóa thế giới. Tùy quan niệm mỗi
bộ tộc, mỗi vùng mà Hồn được biểu trưng qua những hình ảnh khác nhau, Hồn
là biểu tượng của tâm linh, là hơi thở, là sinh khí của một con người. Nói một
cách chung nhất, Hồn là nguyên khí của một sinh thể. Cùng một dòng chảy bất
tận ấy, Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử đã kế thừa và phát triển thành những cái rất
riêng, rất lạ. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ chơi vơi trong ánh sáng
lung linh kì ảo của ánh trăng huyền bí, mà còn rùng mình ớn lạnh bởi họ đang
chìm ngập trong vũng cô liêu của một tâm hồn sâu thẳm.
Máu biểu trưng cho sự sống nhưng cũng hàm ý về cái chết. Như vậy biểu
tượng Máu có hai hàm ý đối lập nhau, sống – chết. Nói đến máu người ta vừa hi
vọng nhưng cũng vừa sợ hãi. Bởi ở đâu có máu, ở đó có sự sống nhưng ở đâu có
đổ máu là nơi đó có hận thù, chết chóc, thương vong… Máu trong thơ Hàn Mặc
Tử là biểu tượng của sự sống, niềm đam mê và gắn với mặt trời.

18
Chƣơng 2
BIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁU TRONG THƠ HÀN MĂ
̣
C TỬ
1. Biểu tƣợng Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử
1.1.Trăng – mối lƣơng duyên kì ngộ
Trăng không phải là ám ảnh của bệnh cùi như Trần Thanh Mại và một số
người đã nhận định. Trăng nơi Hàn Mặc Tử có nguồn gốc sâu xa hơn, gắn bó
với tuổi thơ. Con người nào cũng gắn bó với ký ức đầu đời: một đứa trẻ bị hành
hạ, lớn lên có thể trở thành tội phạm ; kẻ viết văn thường dựa vào ký ức tuổi thơ
để xây dựng đời văn. Hàn Mặc Tử là một trường hợp vận dụng tưởng tượng

trong ký ức; và trăng đối với Hàn là nguồi cội của tuổi thơ: Trăng Sa Kỳ.
Nguyễn Bá Tín, viết về động cát Sa Kỳ, thủa nhỏ hai anh em thường đi
chơi: “Địa phương gọi là Động, kỳ thực là một vùng rộng lớn, cát trắng phau,
thứ cát ánh ngời như mảnh vụn pha lê, chạy dài 4,5 cây số bên bờ đại dương.
( ) Vào những đêm trăng sáng thì tuyệt đẹp, nhưng huyền ảo đến rợn người
như đi vào một thế giới xa lạ. Dân địa phương không dám băng ngang. Người đi
chỉ còn nghe hơi thở của mình và mơ hồ se siết bước chân trên cát giữa vắng
lặng hoàn toàn.
Trăng bao phủ tứ phía bằng một ánh sáng lung linh chờn chợn khó phân
biệt từ trên trăng toả xuống, hay từ cát trắng chiếu lên. Tơ trăng dầy đặc, mỗi
cử động hay di chuyển đều như lùa cả trăng theo” [12;19].
Thiện Nam Nguyễn Bá Tín đã viết về vùng trăng Sa Kỳ của anh mình với
một bút pháp đầy thơ mộng. Với Hàn Mạc Tử, trăng Sa Kỳ không còn là trăng
nữa mà đã hoá thành thơ. Nói đúng ra, trăng Sa Kỳ là điểm tựa đầu tiên, để Hàn
Mặc Tử xây dựng cõi thơ, cõi hư ảo của mình.
Trong bài thơ văn xuôi Chơi giữa mùa trăng (có thể coi là bản tuyên ngôn
thơ của Hàn Mặc Tử) Hàn đã ghi lại những thắc mắc về bản chất Trăng : Cuộc
gặp gỡ đầu tiên với trăng đã gây cho cậu bé Nguyễn Trọng Trí những câu hỏi về
thơ, đã manh nha trong lòng Trí, một định nghĩa thơ, qua trăng, bằng trăng, coi
trăng, như một thực thể sáng tạo:

19
“ Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳ
ảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy có
nhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì là
chỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghiã là trăng
rằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ước
xây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoái
lạc chán chê” (Chơi giữa mùa trăng).
Trăng, như thế, đối với Hàn, ngay từ thủa nhỏ, đã thoát khỏi tất cả những

ý nghiã thông thường mà chúng ta gán cho vừng trăng, ánh nguyệt. Trăng trở
thành thơ, trăng trở thành nhạc. Trăng là thơ và là nhạc, ở Hàn, ngay từ những
suy nghĩ đầu tiên của một cậu bé. Và khi lớn lên, trăng sẽ là chia ly, dục lạc, là
cõi siêu hình, vô lượng, là sự rung động tận cùng trong tạo tác.
Hàn Mặc Tử viết tiếp: “Chị tôi bỗng reo to lên: Đã gần tới sông Ngân
rồi ! Chèo mau lên em! Ta cho thuyền đậu ở bến Hàn giang!( )
Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống
xong một ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng ? Chị tôi làm
thinh, – mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng. ( ) Ở chỗ
nào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế giới chở chúng tôi
đây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bình bồng đến một địa cầu
nào khác. Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo ra
bọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu ( )
A ha, chị Lễ ơi ! chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa ! Ngó lại chị
tôi và tôi thì quả là trăng thiệt.” (Chơi giữa mùa trăng)
Chơi giữa mùa trăng là một bài thơ văn xuôi tuyệt bút, trong đó Hàn Mặc
Tử đã giải thích nguồn cội thi ca nơi Hàn và kể lại sự tan biến của hình hài trong
trăng và sự hoá thân của trăng thành nước, thành thơ, trong một khung cảnh thần
tiên: Hai chị em đi thuyền trên sông, dưới ánh trăng, nhưng tất cả đã bị ảo hoá,
tất cả là mơ, là thơ, là họa, là nhạc. Dòng sông của họ ở trên trời hay dưới đất?
Bến mà họ ghé là bến Hàn giang hay bến Ngân hà? Ánh sáng của họ là sáng
trăng hay là một thứ ánh sáng huyền diệu toả ra từ cõi nhạc tiên, trên thiên đàng,

Xem thêm :  Phân tích bài thơ phò giá về kinh

20
vô chung vô thỉ? Và có lẽ từ khi ấy, từ những cuộc đi chơi dưới trăng Sa Kỳ
thủa nhỏ ấy, mà nguồn thơ Hàn luôn luôn bị quyến dụ bởi tầng cao:
Gió nâng khúc hát lên cao vút
Vần thơ uốn éo lách rừng mây.
(Ngủ với trăng).
Đó chính là “lý thuyết thơ” trong vũ trụ mới của Hàn Mặc Tử. Theo lời

Nguyễn Bá Tín – em trai Hàn Mặc Tử kể lại trong cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi thì
từ những ngày thơ ấu, Trăng đã gắn bó với Hàn Mặc Tử, ông đã từng mải mê
ngắm Trăng một mình trên bãi cát trắng, bên bờ sông. Trăng không phải là ám
ảnh của bệnh phong như Trần Thanh Mai và một số người đã nhận định ( Thụy
Khuê ). Mà Trăng ở đây là cội nguồn của tuổi thơ ông. Từ đó mà hình thành nên
một hồn thơ qua Trăng, bằng Trăng, viết về Trăng. Xuyên suốt cuộc đời Hàn
Mặc Tử là một hình ảnh Trăng. Từ lúc tuổi thơ ấu Trăng đẹp, Trăng tươi, huyền
diệu, lung linh bao nhiêu:
Nước hóa thành trăng, trăng ra nước
Lụa là ướt đẫm cả trăng thơm
Người trăng ăn vận toàn trăng cả.
(Say Trăng)
Vui thay cảnh sáng trăng
Ái tình bắt đầu căng
Hoa thơn thì nín lặng
Hương thơm thì bay lay
(Sáng trăng)
Ngoài nguồn gốc sâu xa ấy, còn có một lý do cụ thể hơn. Vì bệnh phong hủi
đang làm cho thể xác ông “tan rữa” từng ngày, từng đêm, qua từng mùa Trăng.
Chính Trăng là người bạn cho ông niềm tin vào cuộc sống tươi đẹp của trần thế.
Và cũng chính Trăng – động lực siêu hình đã đưa ông về cõi chết. Sau một thời
gian làm ở sở đạc điền, bệnh tình ông bắt đầu chớm nở và ông bị mọi người xa
lánh. Đây cũng chính là thời gian ông làm thơ nhiều nhất. Nhiều đến nỗi ông
không biết mình đã chơi, đã thân thiết với Trăng:

LÊ THU HƢƠNGBIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁUTRONG THƠ HÀN MẶC TỬChuyên ngành: Văn học Việt NamKHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌCGiảng viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Công ThoSơn La, tháng 05 năm 2014LỜI CẢM ƠNKhóa Luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình củaThạc sĩ Nguyễn Công Tho – Giảng viên bộ môn Văn học Việt Nam – KhoaNgữ văn, sự quan tâm của phòng Nghiên cứu khoa học, Ban chủ nhiệm khoaNgữ văn, Thư viện nhà trường cùng các thầy cô giáo bộ môn tiếng Việt, TrườngĐại học Tây Bắc.Em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ đó! Đặc biệt xin bày tỏlòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Thạc sĩ Nguyễn Công Tho người đã tận tìnhchỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.Sơn La, tháng 5 năm 2014Sinh viênLê Thu HƣơngMỤC LỤCPHẦN MỞ ĐẦU 11. Lí do chọn đề tài 12. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 23. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 54. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 55. Ý nghĩa của đề tài 66. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 67. Cấu trúc của đề tài 7Chƣơng 1: NHƢNG VÂN ĐÊCHUNG 81. Vài nét về Hàn Mặc Tử 82. Khái niệm biểu tượng và biểu tượng Trăng, Hồn, Máu 112.1. Khái niệm biểu tượng 112.2. Biểu tượng Trăng 122.3. Biểu tượng Hồn 132.4. Biểu tượng Máu 15Chƣơng 2: BIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁU TRONG THƠ HÀN MĂTỬ 181. Biểu tượng Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử 181.1.Trăng – mối lương duyên kì ngộ 181.2. Trăng – người bạn tâm giao 221.3. Trăng – huyền ảo, ma quái, rùng rợn 261.4. Trăng – nhân vật huyền thoại 282. Biểu tượng Hồn 302.1. Hồn – biểu tượng của sự sống 302.2. Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử mang màu sắc Thiên Chúa giáo 322.3. Hồn là tâm trạng, cảm xúc 333. Biểu tương Máu trong thơ Hàn Mặc Tử 383.1. Máu – nguồn sinh lực của sự sống 383.2. Máu – ẩn dụ về cái chết 41KẾT LUẬN 45TÀI LIỆU THAM KHẢO 47PHẦN MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiHàn Mặc Tử là một nhà thơ có số phận kì lạ và đau thương. Đường thơbất tận và đường đời ngắn ngủi của Hàn Mặc Tử chập nhau trong khoảng mườinăm, để lại những tiếng thơ bất hủ cho hậu thế. Hàn Mặc Tử chính thức gia nhậpphong trào “Thơ mới” năm 1936 với tập thơ Gái quê, ông được xem là nhà thơlạ nhất trong phong trào “Thơ mới” (1932-1945), người cai trị Trường thơ Loạncủa các nhà thơ Bình Định. Trong bài viết Hàn Mặc Tử, anh là ai? (Văn NghệBình Định – 1988 – Số 18 (Xuân Mậu Thìn) nhà thơ Chế Lan Viên đã phân tíchrất hay về Hàn Mặc Tử khiến người đọc phải đặt ra câu hỏi: Không biết sự tồntại của ông là huyền thoại hay hiện thực? Ông là thiên tài hay là kẻ mê hoặc điênloạn?. Nhưng dù Hàn Mặc Tử là người như thế nào, có một điều không thể phủnhận: ông đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử văn chương ViệtNam thế kỉ XX.Trên hành trình tinh thần của Hàn Mặc Tử, thơ ca chính là sự cứu rỗi củalinh hồn để anh hòa với thiên nhiên, tìm đến cõi vĩnh hằng của thể xác. Thế giớithi ca của Hàn Mặc Tử luôn ám ảnh bởi các yếu tố Trăng, Hồn, Máu. Đó lànhững hình tượng nghệ thuật đặc sắc, xuyên suốt trong cảm hứng thi ca của HànMặc Tử, chính những điều ấy đã tạo ra một giọng thơ đặc biệt và không chia sẻâm hưởng với bất kì ai.Hơn một nửa thế kỉ đã trôi qua từ khi chúng ta phải đau xót tiễn đưa mộttài năng thơ lạ lùng, phức tạp đầy bí ẩn trong phong trào thơ mới 1932 – 1945.Đó là nhà thơ Hàn Mặc Tử. Bên bờ biển Quy Nhơn xanh thẳm với muôn ngàncon sóng vỗ dào dạt, cái nắng quyện vào cái gió của mảnh đất miền Trung mặnmà, chính là nơi thi sĩ đi vào cõi vĩnh hằng, giã từ trần gian với một tâm hồnthanh khiết. Ông chỉ có mặt trên cuộc đời với khoảng thời gian ngắn ngủi trongquằn quại đau đớn với căn bệnh quái ác nhưng ông đã sống và cống hiến hếtmình cho khát vọng văn chương làm nên một sức sáng tạo kì lạ: Tôi đã sốngmãnh liệt và đầy đủ, sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn.Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu tôi, đã vui, buồn, giận hờn đến gầnnhư đứt sự sống. Một nguồn thơ được nuôi dưỡng bằng tất cả tinh huyết, bằnggiọt lệ cạn khô, bằng giằng xé đau đớn trong bệnh tật để say sưa rung động trongmột trái tim khổ đau.Nhà thơ Chế Lan Viên đã hơn một lần khẳng định thiên tài hiếm thấy này:“Tử là một đỉnh cao lòa chói trong văn học thế kỉ thậm chí qua các thế kỉ.Trước không có ai, sau không có ai Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt quabầu trời Việt Nam với cái đuôi lòa chói rực rỡ của mình” [16].Ngôi sao ấy đã bay vào vũ trụ bao la, đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vệt sángcủa nó vẫn còn chứa một sức đê mê huyền ảo thấp thoáng hiện lên trong từng thiphẩm tạo nên sức cuốn hút lạ kì. Những cung đàn vui, buồn, giận hờn, sự quằnquại và đau đớn đến tê liệt thể xác và tâm hồn, những khát khao và những lờicầu nguyện đều in dấu trong thơ ông.Những biểu tượng trong thơ Hàn Mặc Tử được coi là những biểu tượngtượng lạ lùng, đầy bí ẩn. Thơ ông đã đi từ cuộc đời đến những cõi xa xôi, mơmộng, huyền ảo. Thơ đem đến cho tâm hồn Hàn Mặc Tử những phút giây sángláng, đê mê, một sức sáng tạo tràn đầy lúc êm dịu, lúc day dứt, lúc mãnh liệt nhưnhững con sóng ào ạt xô bờ, lúc tê tái, buốt giá như băng tuyết. Nghiên cứu vềnhững biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử là ngược dòng quákhứ trở về với cõi xa xưa trong cuộc đời một con người bất hạnh, tìm về cộinguồn trong sự sáng tạo bất diệt và nguồn sống mãnh liệt của thơ ca.Với những lí do như đã trình bày tôi mạnh dạn chọn vấn đề Biểu tượngTrăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử làm vấn đề nghiên cứu. Với hi vọngkết quả nghiên cứu sẽ góp phần hữu ích trong việc tìm hiểu thế giới thơ HànMặc Tử một cách có hiệu quả hơn.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đềCó thể nói từ trước tới nay việc nghiên cứu về Hàn Mặc Tử là một hoạtđộng diễn ra khá sôi nổi trong giới phê bình văn học. Về biểu tượng Trăng, Hồn,Máu trong thơ Hàn Mặc Tử mặc dù đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâmxem xét ở góc độ này hoặc góc độ khác nhưng do mục đích của từng công trìnhkhác nhau nên sự quan tâm chưa được sâu rộng.Năm 1941, công trình nghiên cứu của Trần Thanh Mại Hàn Mặc Tử thânthế và thi văn một công trình có quy mô và chuyên biệt đầu tiên viết về HànMặc Tử. Tác giả đã đi sâu phân tích từng cử chỉ tính tình của thi sĩ từng giaiđoạn trong cuộc đời nhà thơ và coi đó như “những cái vòng của sợi dây chuyềnđể mà ảnh hưởng cái đích mà người viết sách muốn đi đến để cắt nghĩa thiphẩm của nhà thơ” [8]. Trần Thanh Mại đã đi sâu nghiên cứu theo một hướngmới là tiếp cận nghiên cứu số phận đời tư đau khổ, bệnh hoạn, những mối tìnhdở, những đêm trăng sáng, màu trắng tinh khiết đến hãi hùng của dòng sông, củalấp loáng bờ cát trắng trải dài. Tuy nhiên trong công trình nghiên cứu của ôngvẫn mang những trăn trở mà chính ông cũng không thể lí giải hết được. Nhưngcông trình nghiên cứu của ông có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì đã đem đến chođộc giả một cái nhìn tổng quan nhất về thơ Hàn Mặc Tử. Tuy nhiên trong việcsưu tầm và công bố những tư liệu về Hàn Mặc Tử của ông có đôi chút sơ xuấtnên Quách Tấn đã phát đơn kiện và vụ án Hàn Mặc Tử gây xôn xao dư luận vàcó không ít những bất bình trong giới văn nghệ sĩ.Với tác giả thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh và Hoài Chân thực sự đã rấtnhạy cảm tinh tế khi đi vào thế giới thơ Hàn Mặc Tử: “ngót một tháng trời tôiđã đọc thơ Hàn Mặc Tử. Tôi đã đi theo Hàn Mặc Tử từ lối thơ Đường đến vởkịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi đã mệt lả… chính những lời Hàn Mặc Tửnói trong tựa “thơ điên”: “vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến càng đixa càng ớn lạnh”[11].Có rất nhiều công trình nghiên cứu cùng những khẳng định đánh giá củacác nhà nghiên cứu văn học trước năm 1945. Đó là những đóng góp đầu tiênkhai phá mở đường cho độc giả đi vào thế giới thơ kì lạ, là những viên gạch đầutiên xây lên bức tường thành vĩ đại trong hồn thơ Hàn Mặc Tử.Nguyễn Tấn Long trong Việt Nam thi nhân tiền chiến đã nói về nhữngthẩm định của các nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử: “có những kẻ chiêm ngưỡngthơ Hàn Mặc Tử như một tâm hồn cảm xúc đầy âm nhạc và màu sắc. Có kẻmượn phân tâm học để mổ xẻ thơ Hàn Mặc Tử bằng kết tinh của nhân vật bệnhhoạn, có kẻ ca tụng thơ Hàn Mặc Tử như một sức sống chân thật và mãnh liệtcủa cuộc đời” [7].Ta có thể nhìn lại bức tranh toàn cảnh về các công trình nghiên cứu thơHàn Mặc Tử theo những khuynh hướng sau:Thứ nhất là nhóm các bài viết theo lối phê bình khách quan:Những công trình nghiên cứu theo hướng này chủ yếu thiên về đời tư vớicăn bệnh hoạn của Hàn Mặc Tử và những mối tình chớm nở của thi sĩ mà rất ítnói đến sự nghiệp văn chương tiêu biểu là những công trình nghiên cứu củaHoàng Trọng Miên Những ngày sống chung với Hàn Mặc Tử ở Sài Gòn, NgọcSương với Tưởng niệm Hàn Mặc Tử Phan Công Thiện với Một định mệnh đeoriết bên mình Hàn Mặc Tử và Xin chút long để lại lối xưa của Đào TrườngPhúc…Thứ hai là nhóm các bài viết về Hàn Mặc Tử trong mối quan hệ với mộtsố tôn giáo như Thiên Chúa giáo, đạo Phật, đạo giáo.Về phương diện này đã gây ra nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề “chấtĐạo” và “chất Đời” trong thơ Hàn Mặc Tử. Những công trình nghiên cứu vẫnchỉ dừng lại ở mức đặt ra vấn đề đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử mà chưa thể lígiải được vì sao lại có sự hài hòa giữa một bên là yêu cầu đức tin tuyệt đối vàmột bên là sự phóng túng của tâm hồn thi sĩ khát khao giao cảm với cuộc đời.Với công trình Đức tin trong hồn thơ Hàn Mặc Tử Đặng Tiến đã có phần hơicực đoan khi nhận định: Toàn bộ thi phẩm của Hàn Mặc Tử là tiếng vọng củathánh tự, Hàn Mặc Tử đã phải sống cuộc đời đau thương của một người tín đồđể được tồn sinh sau khi cái chết được phục sinh trong thế giới khải huyền.Theo cách hiểu quan điểm tôn giáo thần bí siêu hình Dũng Lạc Trần CaoTường đã chọn hướng tiếp cận hiện tượng Hàn Mặc Tử để nhận ra cái huyền bíở bên kia cõi chết. Tuy chưa có sức thuyết phục về mặt khoa học nhưng cũng làmột hướng nghiên cứu mớiBước sang thập kỉ 80, không khí của thời kì đổi mới như đem một luồngsinh khí mới mạnh mẽ và khoáng đạt hơn so với thời kì trước.Lê Đình Kị cho rằng trong Thơ Điên có nỗi đau của riêng Hàn Mặc Tửhòa vào nỗi đau chung của đất nước. Đây thực sự là một cái nhìn hết sức mớimẻ về Hàn Mặc Tử và Thơ Điên.Khuynh hướng nghiên cứu theo kiểu sưu tầm tư liệu về cuộc đời cũng nhưthơ ca Hàn Mặc Tử là khuynh hướng tiêu biểu. Với công trình nghiên cứu củaPhạm Xuân Tuyển Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử (1997). Sau bao tháng ngàytìm về với lối xưa, chốn cũ đi theo những dấu chân, những con đường mà nhàthơ đã đi qua tác giả Phạm Xuân Tuyển đã thu nhặt tập hợp những thi liệu quýgiá ấy để làm nên công trình tương đối trọn vẹn về bức chân dung cuộc đời HànMặc Tử. Có thể nói đây là một tài liệu rất quý phục vụ cho việc nghiên cứu vàtìm hiểu về tác giả Hàn Mặc Tử.Ngoài ra, còn một số bài viết rất có ý nghĩa cần nói tới như: Hàn Mặc Tử,hương thơm và mật đắng của Trần Thị Huyền Trang (1991), Hàn Mặc Tử, thi sĩđồng trinh của Nguyễn Thụy Kha (1993)…3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu3.1. Đối tƣợng nghiên cứuTrong đề tài này tôi sẽ tập trung khảo sát những biểu tượng Trăng, Hồn vàMáu trong thơ Hàn Mặc Tử (biểu hiện thông qua những hình tượng thơ, cảmhứng nghệ thuật, hình thức nghệ thuật mà tác giả sử dụng trong thơ ), từ đó đểlàm rõ: Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu trong thơ Hàn Mặc Tử.3.2. Phạm vi nghiên cứuDựa trên sự khảo sát một số tác phẩm của nhà thơ tập: Thơ Điên, LệThanh thi tập, Gái quê, Đau thương, Xuân Như Ý, Thượng Thanh Khí, Cẩmchâu duyên, Duyên kì ngộ cùng một số đoạn văn, thư từ do Hàn Mặc Tử viếtvà được sưu tầm lại.4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài4.1. Mục đíchMục đích của đề tài là trên cơ sở nguồn ngữ liệu thơ Hàn Mặc Tử tìm hiểuthêm để làm rõ thêm ý nghĩa các biểu tượng Trăng, Hồn và Máu trong thơ HànMặc Tử.4.2. Nhiệm vụCăn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, nhiệm vụ đề tài hướng tớicác nội dung sau:- Nghiên cứu lí thuyết về biểu tượng Trăng, Hồn, Máu.- Thấy được một cách tổng quan về hệ thống biểu tượng Trăng, Hồn, Máutrong thơ Hàn Mặc Tử.5. Ý nghĩa của đề tài5.1. Ý nghĩa lí luậnNghiên cứu đề tài “Biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn MặcTử”, tôi chọn cách tiếp cận với thế giới biểu tượng nghệ thuật mới mẻ trongdòng văn học đương đại, khai thác những đặc sắc và những đặc trưng thẩm mỹcủa một phong cách thơ độc đáo. Với hi vọng rằng sau khi nghiên cứu thànhcông đề tài này sẽ góp phần nhận diện thơ Hàn Mặc Tử sâu hơn, rộng hơn vàđưa ra được cái nhìn đầy đủ có hệ thống về tác giả5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tàiTôi hi vọng với đề tài này có thể sử dụng làm một trong những tư liệutham khảo cho những ai yêu thơ Hàn Mặc Tử, những ai quan tâm tới tác giả vănhọc này một lần nữa được sống trong thế giới thơ ông và chiêm nghiệm về nótrong kiếp nhân sinh của cuộc đời.Có thể sẽ làm tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy ở trường phổ thông saunày của tôi cũng như độc giả đón đọc nó.6. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệuĐi sâu nghiên cứu vấn đề Biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ HànMặc Tử là một vấn đề không hề đơn giản. Để tiếp cận và nghiên cứu tìm ra nétmới và để tránh sự trùng lặp trong đề tài này tôi đã sử dụng một số phương phápcơ bản sau:6.1. Phƣơng pháp phân tíchĐây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong khóa luậnnày. Từ những tài liệu nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu cùng sựtìm tòi sáng tạo của bản thân, tôi vận dụng đưa vào đề tài. Qua đây chúng ta sẽ thấyrõ hơn những nét đặc sắc trong biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử,thấy được những khám phá sáng tạo phi thường của nhà thơ.6.2. Phƣơng pháp so sánhTrong quá trình phân tích Biểu tượng Trăng, Hồn và Máu trong thơHàn Mặc Tử, tôi tiến hành liên hệ, so sánh điểm khác biệt của ông với các nhàthơ khác. Như vậy sẽ giúp cho đề tài thêm sức thuyết phục và góp phần khẳngđịnh tài năng cùng những đóng góp của Hàn Mặc Tử cho nền văn học nước nhà.6.3. Phƣơng pháp hệ thốngNgười viết nhận thấy rằng sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử là một chỉnh thểnghệ thuật trọn vẹn và mang tính hệ thống. Vì thế, khi nghiên cứu người viết đặtnó trong một hệ thống chung theo một trật tự nhất định.6.4. Phƣơng pháp thống kê – phân loạiPhương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những nhận xét về thơ HànMặc Tử có chứng cứ cụ thể. Một mặt nào đó giúp cho việc so sánh đối chiếu cóthêm sức thuyết phục.7. Cấu trúc của đề tàiTrong đề tài này ngoài phần mở đầu, kết luận, phần mục lục và thư mụctham khảo còn có 2 chương, cụ thể:Chương 1: Những vấn đề chungChương 2: Biểu tượng Trăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc TửChƣơng 1: NHƢNG VÂN ĐÊCHUNG1. Vài nét về Hàn Mặc TửHàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới,Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạoCông giáo. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm báoTân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn MặcTử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốcsự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào ThừaThiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợlà Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), sinhhạ được 8 người con:1- Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt HànMặc Tử trên con đường thơ văn.2- Nguyễn Thị Như Lễ.3- Nguyễn Thị Như Nghĩa.4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử).5- Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Rángvào ngày 13-02-1959).6- Nguyễn Bá Hiếu.7- Nguyễn Văn Hiền.8- Nguyễn Văn Thảo.Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học vàthích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do thân phụ là ông Nguyễn VănToản làm thông ngôn, ký lục thường di chuyển nhiều nơi, nên Hàn Mặc Tử cũngđã theo học ở nhiều trường khác nhau như Sa Kỳ (1920), Qui Nhơn, Bồng Sơn(1921-1923), Pellerin Huế (1926).Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông cótài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan BộiChâu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giớithiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Việc xướng họa thơ văn vớinhà yêu nước Phan Bội Châu đã làm cho Hàn Mặc Tử, khi đó lấy bút hiệuPhong Trần, nổi tiếng ngay lập tức. Làng văn xôn xao trước sự xuất hiện đầy ấntượng của một thi sĩ mới. Đặc biệt hơn nữa, tác giả còn được Phan Bội Châu tônxưng là tiên sinh. Tiếp sau đó, Hàn Mặc Tử ra Huế để tìm thăm Phan Bội Châu.Đây là một việc làm hết sức nguy hiểm, vì thực dân Pháp sẽ chú ý đến tất cảnhững ai có mối quan hệ mật thiết với nhà yêu nước này. Sau cuộc gặp gỡ, HànMặc Tử thường xuyên liên hệ thư từ với Phan Bội Châu, chàng còn gửi thơ củanhững người bạn khác ra cho ông. Mật thám Pháp sau một thời gian theo dõi,cuối cùng đã quyết định gạt tên chàng ra khỏi danh sách những người được bảotrợ sang Pháp du học. Tiếp đó, Sogny, Chánh sở mật thám Huế gửi công vănvào Quy Nhơn yêu cầu điều tra về chàng. Chánh sở mật thám Quy Nhơn làVéran gọi chàng lên tra hỏi nhiều lần làm cho gia đình hết sức lo lắng. Ngườianh đầu của chàng phải gửi thư ra Huế nhờ Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, mộtngười quen thân với gia đình chàng xưa nay, can thiệp. Từ đó chính quyền mớiđể ông được yên.Không được đi du học, cuộc đời Hàn Mặc Tử rẽ sang một ngả khác. Từđây, chàng bắt đầu bước chân vào con đường viết báo. Thời gian này, tình hìnhkinh tế nói chung rất khó khăn. Nạn thất nghiệp tràn lan. Chàng làm thêm côngviệc biên chép các tờ trích lục cũ cho Sở Đạc điền Quy Nhơn. Nhưng công việcnày chỉ đem đến cho chàng một khoản tiền đủ để mua báo, giấy viết và tem thưgửi bài. Rồi xảy ra cơn bão lớn năm 1934 làm sập căn nhà của chàng đang ở. Nợnần ập đến. Hàn Mặc Tử quyết định rời Quy Nhơn, vào Sài Gòn lập nghiệp, nămđó ông 21 tuổi.Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Côngluận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Haingười bắt đầu trao đổi thư từ với nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặpMộng Cầm. Một tình yêu lãng mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiệnnhững dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không10quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Chođến năm 1936, khi ông được xuất bản tập Gái quê, rồi đi Huế, Sài Gòn, QuảngNgãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phépcho tờ Phụ nữ tân văn, quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ôngmới nghĩ đến bệnh tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn mộtloại bệnh thuộc loại “phong ngứa” gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứkhông ngờ đến một căn bệnh nan y. Năm 1938 – 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữdội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gàothét ở trong thơ mà thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa,Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mìnhnhư sau: “Da anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sứckhỏe để kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc“găng” tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng” [12].Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đếnthăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học(thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ.Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin chorằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (PhanThiết), qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗngông phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để rồisớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩnHansen gây nên.Trước đây vì thành kiến sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nênbao nhiêu bệnh nhân đã bị hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thìHàn Mặc Tử cũng không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phóvới chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm,đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn tránhnhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học vì lẽ ra cầnphải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất lúc bấy giờ là Bệnhviện phong Quy Hòa. Trong câu chuyện với người em của thi sĩ Hàn Mặc11Tử, bác sĩ Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnhnhân nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tửkhông đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết làdo nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của lang bămtrước khi nhập viện phong Quy Hòa. Hàn Mặc Tử bỏ tất cả quay về QuyNhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhàthương này vì chứng bệnh kiết lỵ, khi mới bước sang tuổi 28.Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụnữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông – có những ngườiông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉbiết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương,Thanh Huy, Mỹ Thiên.Hàn Mặc Tử để lại cho đời một số lượng thơ và kịch thơ khá lớn vớinhiều tập thơ nổi tiếng Thơ điên, Lệ Thanh thi tập, Thượng thanh khí, Cẩm châuduyên. Thơ anh trước không ai có, sau không ai có. Hàn Mặc Tử như một ngôisao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình (PhanCự Đệ). Với lối thơ kinh dị lạ thường, đặc biệt trong tất cả các tập thơ của HànMặc Tử đều chủ yếu nói về Trăng. Trăng như một người bạn có linh hồn biếtcười, biết khóc, biết gào thét, đôi khi lại như là người tình trong mộng.2. Khái niệm biểu tƣợng và biểu tƣợng Trăng, Hồn, Máu2.1. Khái niệm biểu tƣợngTheo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán (chủ biên), biểu tượng làkhái niệm dùng để chỉ một hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác và chocon người hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu, sau khi tác động của sự vậtvào giác quan đã chấm dứt. Trong nghĩa hẹp, biểu tượng là “một phương thứcchuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặc biệt có khảnăng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiện tượng nào đấy,vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xa với con người12và cuộc đời” [6; 24]. Trong nghĩa rộng, biểu tượng là “đặc trưng phản ánh cuộcsống bằng hình tượng văn học nghệ thuật” [6; 24].Biểu tượng còn được hiểu là cổ mẫu (mẫu gốc, siêu mẫu, siêu tượng…).Còn trong Từ điển biểu tượng thế giới thì diễn giải “các mẫu gốc hiển hiện ranhư những cấu trúc tâm thần gần như phổ biến, bẩm sinh hay được thừa kế, mộtthứ ý thức tập thể; chúng thể hiện qua các biểu tượng đặc biệt chứa đầy mộtcông suất năng lượng lớn. Chúng đóng một vai trò động lực và thống nhất đángkể trong sự phát triển nhân cách” [2]. Theo các tài liệu chúng tôi có được, kháiniệm cổ mẫu (archetype) này được nhà phân tâm học người Thuỵ Sĩ Carl GustavJung (1875 – 1961) nghiên cứu và đề xuất. Jung đã phát triển thuyết vô thức củaSigmund Freud (1856 – 1939, người Áo) và đưa ra một cái nhìn mới về hệ tâmthức con người. Trong đó vô thức tập thể – ngôi nhà xuyên thời đại của cổ mẫu -là khái niệm cốt lõi [3]. Như vậy cổ mẫu là cấu trúc tinh thần bẩm sinh, cấu trúctâm thần gần như phổ biến hoặc thừa kế; và nếu biểu tượng bắt nguồn từ vănhóa, tôn giáo, lịch sử – những lĩnh vực thuộc về ý thức – của các cộng đồng thìcổ mẫu hình thành từ nguồn cội xa xưa, quan trọng sinh tạo trong vô thức tậpthể . Và đọc cổ mẫu là cách nhìn tác phẩm văn chương từ bên ngoài. Nhưngcách nhìn từ bên ngoài này không quy chiếu những chuẩn mực và tiêu chí cótrước vào tác phẩm, để mà giải thích nó. Đọc cổ mẫu là đi tìm, chăm chú ghinhận các hiện tượng cùng những cuộc gặp gỡ thường rất bất ngờ của chúngtrong tác phẩm, xuyên qua thời gian và không gian, tra vấn và thử trả lời.2.2. Biểu tƣợng TrăngTừ lâu Trăng đã là một biểu tượng văn hóa lớn. Theo quan niệm Á ĐôngTrăng là biểu tượng của điềm lành, hạnh phúc. Đạo giáo cho rằng, mặt trăng lànơi cư trú của chú thỏ ngọc, đang nghiền thuốc trường sinh ở gốc đa. Trong cáchhiểu như vậy, trăng là nơi chứa đựng nguồn sống bất tử. Trăng đã trở thành chủđề chính trong nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật và cảm hứng cho vô sốnhững thứ khác. Nó là môtip trong nghệ thuật thị giác, nghệ thuật trình diễn,thơ, văn xuôi và âm nhạc. Trong nhiều nền văn hóa tiền sử và cổ đại, Trăngđược nhân cách hóa thành Thần Mặt Trăng hay những hiện tượng siêu13nhiên khác. Mặt Trăng từ lâu đã được một số người gắn với bệnh điên và sự philý; các từ lunacy (điên rồ) và loony (người điên) có nguồn gốc từ tiếng Latin chotên gọi của Mặt Trăng, Luna.Trong văn học, không biết tự bao giờ, Trăng đã là nguồn cảm hứng bấttận muôn đời của các thi sĩ văn nhân. Trong cảm quan của người nghệ sĩ, Trăngkhông đơn thuần là nguồn sáng trong đêm mà đã trở thành một biểu tượng độcđáo. Ở đó, nó đã trở thành một âm hưởng đa thanh xoáy sâu vào tâm hồn có sứcám ảnh, khơi gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình, hạnhphúc và khổ đau, quê hương và gia đình, tình yêu và thân phận con người…Trong văn học Trung đại Trăng đã được các nhà thơ vận dụng trong trường liêntưởng một cách tinh tế, sáng tạo. Có thể đấy là tuổi xuân, hạnh phúc, là vẻ đẹp,niềm vui, là nỗi buồn cô đơn tuyệt vọng, đôi khi là một người bạn, người tìnhyêu dấu Đến văn học hiên đại Trăng không còn được miêu tả theo lối ước lệtượng trưng như thời kì trước mà đã được các tác giả thổi hồn vào làm cho nóthực sự trở thành một chủ thể mang một sức sống mới, một màu sắc cá thể hóarõ rệt, cao độ. Trăng cũng như người, biết chờ đợi, hẹn hò, có tâm trạng vui,buồn, cô đơn khi xa cách… Trăng ở đây đã là em, là nàng, là biểu tượng của cáiđẹp, là nguồn cảm hứng khơi gợi sáng tạo bất tận của các thi nhân. Đọc thơ HànMặc Tử, quả đúng như nhận xét: “Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao…linh động lòng người. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng cay nghiệt, cũngtrơ tráo và cũng nao nức dục tình…” [11]. Trong thơ Hàn Mặc Tử, Trăng khôngnhững được thi vị hóa, nhân cách hóa như nhiều nhà thơ khác mà còn được hiệnthực hóa ngay trong cái không khí thi vị ấy. Trăng giăng mắc khắp cả khônggian, thời gian của sự sống. Có thể nói Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử đâu còn làmột khách thể mà đã trở thành một bản ngã ở trong thơ. Nó đã hòa quyện vàotừng tế bào nơi cơ thể và độ sâu thẳm của tâm linh. Nó có khả năng vỗ về, yêuđương, đối thoại như một hiện hữu người. Đúng như ai đó đã nói, Trăng trongthơ Hàn Mặc Tử được kết tinh như hạt muối, vừa có vị mặn của muối, vừa có vịmặn của đời.2.3. Biểu tƣợng Hồn14Tùy quan niệm mỗi bộ tộc, mỗi vùng mà Hồn được biểu trưng qua nhữnghình ảnh khác nhau, có thể dẫn ra một số ví dụ tiêu biểu sau. Thời Ai Cập cổđại, con chim đầu người biểu trưng cho linh hồn của từng cá thể. Hay theotruyền thống của của người Maya, người chết phải đặt “nằm ngửa duỗi thẳngchân tay để linh hồn có thể tự do thoát ra khỏi thân xác qua miệng” [2; 451].Trong Kinh Thánh, hồn chính là Thần Khí mà Thượng Đế thổi hơi vào conngười (làm bằng đất sét) để trao ban sự sống. Còn hầu hết người Á Đông thìquan niệm “vạn vật hữu linh” tức mọi thứ đều có linh hồn. Nó (linh hồn) có thểnằm trong con người, con vật, cây cối và thậm chí là những đồ vật vô tri vô giácnhư nhà cửa, ấm chén… Từ thuyết trên có thể hiểu một cách đơn giản về linhhồn con người trong quan niệm của người Á Đông như sau: Con người có haiphần linh hồn và thể xác. Trong đó, hồn quyết định sự sống của con người. Khicon người chết đi thì linh hồn rời khỏi xác và trở thành ma (theo văn hóa ngườiViệt) hay Phỉ (theo quan niệm của Lào, Thái Lan). Trong văn hóa của ngườiViệt, quan niệm về linh hồn đã có từ rất lâu và được chia làm hai bậc: Hồn vàvía. Vía được hiểu như là những bộ phận gắn trên cơ thể của con người, nócó chức năng làm công cụ hoạt động của cơ thể sống. Ngoài ra chúng còn lànhững bộ phận làm phương tiện thể hiện, bộc lộ cái bên trong của con người khigiao tiếp với thế giới bên ngoài. Cho nên dân gian có câu nói đôi mắt là cửa sổcủa tâm hồn, là vậy. Còn từ góc độ phân tâm học, cụ thể theo Jung, Hồn là “mộttrạng thái tâm lý cần phải được dành cho một sự độc lập nhất định trong khuônkhổ ý thức…” [2; 452]. Theo quan niệm dân tộc học và sử học về tâm hồn, “nóban đầu là một nội hàm thuộc về cá nhân, nhưng nó cũng thuộc về thế giới củacái linh thiêng, nó là vô thức. Tâm hồn vì thế luôn luôn tự thân là một cái gì đóvừa trần thế vừa siêu nhiên” [2; 452]. Nhưng chủ yếu, Hồn là biểu tượng củatâm linh, là hơi thở, là sinh khí của một con người. Nói một cách chung nhất,Hồn là nguyên khí của một sinh thể. Cùng một dòng chảy bất tận ấy, Hồn trongthơ Hàn Mặc Tử đã kế thừa và phát triển thành những cái rất riêng, rất lạ. Đọcthơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ chơi vơi trong ánh sáng lung linh kì ảo của15ánh trăng huyền bí, mà còn rùng mình ớn lạnh bởi họ đang chìm ngập trongvũng cô liêu của một tâm hồn sâu thẳm.2.4. Biểu tƣợng MáuTheo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, thì Máu “tượng trưng cho tấtcả những giá trị liên đới với lửa, với sức nóng và sự sống, gắn với mặt trời”. [2;566] Ngoài ra Máu được coi là phương tiện truyền dẫn sự sống, là bản nguyêncủa sự sinh thành. Máu hòa với nước là hình ảnh chảy ra từ vết thương nơi cạnhsườn Đức Giêsu Kitô, cùng trong ý nghĩa đó, máu là trường hợp siêu chuyểnthánh thể thành bánh. Máu còn ứng với nhiệt, nhiệt của sự sống và nhiệt củathân thể. Và cùng với một quan điểm trên “Máu là bản nguyên của thân xác vàlà phương tiện truyền dẫn những đam mê” [2; 566]. Với một số dân tộc khác thìmáu là vật dẫn linh hồn. Ngoài ra còn những ý kiến khác nhau về hình ảnh máu.Nhưng về cơ bản, Máu biểu trưng cho sự sống nhưng cũng hàm ý về cái chết.Như vậy biểu tượng Máu có hai hàm ý đối lập nhau, sống – chết. Nói đến máungười ta vừa hi vọng nhưng cũng vừa sợ hãi. Bởi ở đâu có máu, ở đó có sự sốngnhưng ở đâu có đổ máu là nơi đó có hận thù, chết chóc, thương vong….Trongvăn hóa và văn học Việt Nam, Máu còn biểu trưng cho tình ruột thit. Cho nênmới có câu Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Máu như thế biểu hiện cho sựsống, nhiệt huyết và tình yêu.Ở các tập thơ đầu, hình ảnh máu rất ít, hầu như không được Hàn Mặc Tửthể hiện trong thơ của mình. Nó bắt đầu xuất hiện và xuất hiện ngày càng nhiều.Tập thơ Điên Đau thương, đã có 12 bài viết về máu trên tổng số 53 bài thơ. Nóinhư Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam thì “Hàn Mặc Tử đi trongtrăng, há miệng cho máu tung ra biển cả, cho hồn văng ra và rú lên những tiếngghê người”[2; 205]. Đọc thơ Điên của ông, ta bắt gặp những câu thơ đầy máu.Máu trong thơ Hàn Mặc Tử là biểu tượng của sự sống, niềm đam mê và gắn vớimặt trời.Tiểu kết16Hàn Mặc Tử là một tài năng thơ lạ lùng, phức tạp đầy bí ẩn trong phongtrào thơ mới. Ông chỉ có mặt trên cuộc đời với khoảng thời gian ngắn ngủi trongquằn quại đau đớn với căn bệnh quái ác nhưng ông đã sống và cống hiến hếtmình cho khát vọng văn chương làm nên một sức sáng tạo kì lạ. Những biểutượng trong thơ Hàn Mặc Tử được coi là những biểu tượng tượng lạ lùng, đầy bíẩn. Thơ ông đã đi từ cuộc đời đến những cõi xa xôi, mơ mộng, huyền ảo. Thơđem đến cho tâm hồn Hàn Mặc Tử những phút giây sáng láng, đê mê, một sứcsáng tạo tràn đầy lúc êm dịu, lúc day dứt, lúc mãnh liệt như những con sóng àoạt xô bờ, lúc tê tái, buốt giá như băng tuyết. Nghiên cứu về những biểu tượngTrăng, Hồn, Máu trong thơ Hàn Mặc Tử là ngược dòng quá khứ trở về với cõixa xưa trong cuộc đời một con người bất hạnh, tìm về cội nguồn trong sự sángtạo bất diệt và nguồn sống mãnh liệt của thơ ca.Biểu tượng là khái niệm dùng để chỉ một hình thức của nhận thức cao hơncảm giác và cho con người hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong đầu, sau khi tácđộng của sự vật vào giác quan đã chấm dứt. Trong nghĩa hẹp, biểu tượng là mộtphương thức chuyển nghĩa của lời nói hoặc một loại hình tượng nghệ thuật đặcbiệt có khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát được bản chất của một hiệntượng nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tư tưởng hay một triết lý sâu xavới con người và cuộc đời. Trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánhcuộc sống bằng hình tượng văn học nghệ thuật.Trăng không đơn thuần là nguồn sáng trong đêm mà đã trở thành mộtbiểu tượng độc đáo. Trăng là một âm hưởng đa thanh xoáy sâu vào tâm hồn cósức ám ảnh, khơi gợi cho người đọc nhiều xúc cảm về chiến tranh và hòa bình,hạnh phúc và khổ đau, quê hương và gia đình, tình yêu và thân phận conngười… Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không là một thực thể ngoại giới, mộtkhách thể của thiên nhiên nữa, mà trăng được nhân tính hóa, quay cuồng trongnhững biến ảnh liên tiếp qua cái ống kính vạn hoa của một tâm thức mê sảnghoảng loạn. Trăng trong vùng khí quyển này là những biến ảnh, trên cái biêngiới xa nhất của cơn mê sảng: trăng trong vực thẳm đọa đày, Trăng đồng thể vàTrăng xuất thể, Trăng sáng trong, Trăng quạnh quẽ cô đơn, trăng yêu ma kì dị,17Trăng linh loạn rùng rợn, Trăng âm u – sáng láng, Trăng bám riết giày vò, Trăngnhức nhối quằn quại, Trăng rên siết, kêu thương, trăng cười, Trăng khóc, Trăngchạy, Trăng ngã, Trăng tan, Trăng vỡ, Trăng réo gào thảm thiết…Hồn đã là một biểu tượng lớn trong văn hóa thế giới. Tùy quan niệm mỗibộ tộc, mỗi vùng mà Hồn được biểu trưng qua những hình ảnh khác nhau, Hồnlà biểu tượng của tâm linh, là hơi thở, là sinh khí của một con người. Nói mộtcách chung nhất, Hồn là nguyên khí của một sinh thể. Cùng một dòng chảy bấttận ấy, Hồn trong thơ Hàn Mặc Tử đã kế thừa và phát triển thành những cái rấtriêng, rất lạ. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta không chỉ chơi vơi trong ánh sánglung linh kì ảo của ánh trăng huyền bí, mà còn rùng mình ớn lạnh bởi họ đangchìm ngập trong vũng cô liêu của một tâm hồn sâu thẳm.Máu biểu trưng cho sự sống nhưng cũng hàm ý về cái chết. Như vậy biểutượng Máu có hai hàm ý đối lập nhau, sống – chết. Nói đến máu người ta vừa hivọng nhưng cũng vừa sợ hãi. Bởi ở đâu có máu, ở đó có sự sống nhưng ở đâu cóđổ máu là nơi đó có hận thù, chết chóc, thương vong… Máu trong thơ Hàn MặcTử là biểu tượng của sự sống, niềm đam mê và gắn với mặt trời.18Chƣơng 2BIỂU TƢỢNG TRĂNG, HỒN, MÁU TRONG THƠ HÀN MĂC TỬ1. Biểu tƣợng Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử1.1.Trăng – mối lƣơng duyên kì ngộTrăng không phải là ám ảnh của bệnh cùi như Trần Thanh Mại và một sốngười đã nhận định. Trăng nơi Hàn Mặc Tử có nguồn gốc sâu xa hơn, gắn bóvới tuổi thơ. Con người nào cũng gắn bó với ký ức đầu đời: một đứa trẻ bị hànhhạ, lớn lên có thể trở thành tội phạm ; kẻ viết văn thường dựa vào ký ức tuổi thơđể xây dựng đời văn. Hàn Mặc Tử là một trường hợp vận dụng tưởng tượngtrong ký ức; và trăng đối với Hàn là nguồi cội của tuổi thơ: Trăng Sa Kỳ.Nguyễn Bá Tín, viết về động cát Sa Kỳ, thủa nhỏ hai anh em thường đichơi: “Địa phương gọi là Động, kỳ thực là một vùng rộng lớn, cát trắng phau,thứ cát ánh ngời như mảnh vụn pha lê, chạy dài 4,5 cây số bên bờ đại dương.( ) Vào những đêm trăng sáng thì tuyệt đẹp, nhưng huyền ảo đến rợn ngườinhư đi vào một thế giới xa lạ. Dân địa phương không dám băng ngang. Người đichỉ còn nghe hơi thở của mình và mơ hồ se siết bước chân trên cát giữa vắnglặng hoàn toàn.Trăng bao phủ tứ phía bằng một ánh sáng lung linh chờn chợn khó phânbiệt từ trên trăng toả xuống, hay từ cát trắng chiếu lên. Tơ trăng dầy đặc, mỗicử động hay di chuyển đều như lùa cả trăng theo” [12;19].Thiện Nam Nguyễn Bá Tín đã viết về vùng trăng Sa Kỳ của anh mình vớimột bút pháp đầy thơ mộng. Với Hàn Mạc Tử, trăng Sa Kỳ không còn là trăngnữa mà đã hoá thành thơ. Nói đúng ra, trăng Sa Kỳ là điểm tựa đầu tiên, để HànMặc Tử xây dựng cõi thơ, cõi hư ảo của mình.Trong bài thơ văn xuôi Chơi giữa mùa trăng (có thể coi là bản tuyên ngônthơ của Hàn Mặc Tử) Hàn đã ghi lại những thắc mắc về bản chất Trăng : Cuộcgặp gỡ đầu tiên với trăng đã gây cho cậu bé Nguyễn Trọng Trí những câu hỏi vềthơ, đã manh nha trong lòng Trí, một định nghĩa thơ, qua trăng, bằng trăng, coitrăng, như một thực thể sáng tạo:19“ Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kỳảo, thơm thơm, và nếu người thơ lắng nghe một cách ung dung, sẽ nhận thấy cónhiều tiếng nhạc say say gió xé rách lả tả Và rơi đến đâu, chạm vào thứ gì làchỗ ấy, thứ ấy vang lên tuy chẳng một ai thấy rõ sức rung động. Nghiã là trăngrằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một mùa ao ướcxây bằng châu lệ, làm bằng chia ly, và hơn nữa, hiện hình của một nguồn khoáilạc chán chê” (Chơi giữa mùa trăng).Trăng, như thế, đối với Hàn, ngay từ thủa nhỏ, đã thoát khỏi tất cả nhữngý nghiã thông thường mà chúng ta gán cho vừng trăng, ánh nguyệt. Trăng trởthành thơ, trăng trở thành nhạc. Trăng là thơ và là nhạc, ở Hàn, ngay từ nhữngsuy nghĩ đầu tiên của một cậu bé. Và khi lớn lên, trăng sẽ là chia ly, dục lạc, làcõi siêu hình, vô lượng, là sự rung động tận cùng trong tạo tác.Hàn Mặc Tử viết tiếp: “Chị tôi bỗng reo to lên: Đã gần tới sông Ngânrồi ! Chèo mau lên em! Ta cho thuyền đậu ở bến Hàn giang!( )Tôi muốn hỏi xem chị tôi có thấy ngọt ngào trong cổ họng như vừa uốngxong một ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả lưỡi và hàm răng ? Chị tôi làmthinh, – mà từng lá trăng rơi lên xiêm áo như những mảnh nhạc vàng. ( ) Ở chỗnào cũng có trăng, có ánh sáng cả, tưởng chừng như bầu thế giới chở chúng tôiđây cũng đang ngập lụt trong trăng và đang trôi nổi bình bồng đến một địa cầunào khác. Ánh sáng tràn trề, ánh sáng tràn lan, chị tôi và tôi đều ngả vạt áo rabọc lấy, như bọc lấy đồ châu báu ( )A ha, chị Lễ ơi ! chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa ! Ngó lại chịtôi và tôi thì quả là trăng thiệt.” (Chơi giữa mùa trăng)Chơi giữa mùa trăng là một bài thơ văn xuôi tuyệt bút, trong đó Hàn MặcTử đã giải thích nguồn cội thi ca nơi Hàn và kể lại sự tan biến của hình hài trongtrăng và sự hoá thân của trăng thành nước, thành thơ, trong một khung cảnh thầntiên: Hai chị em đi thuyền trên sông, dưới ánh trăng, nhưng tất cả đã bị ảo hoá,tất cả là mơ, là thơ, là họa, là nhạc. Dòng sông của họ ở trên trời hay dưới đất?Bến mà họ ghé là bến Hàn giang hay bến Ngân hà? Ánh sáng của họ là sángtrăng hay là một thứ ánh sáng huyền diệu toả ra từ cõi nhạc tiên, trên thiên đàng,20vô chung vô thỉ? Và có lẽ từ khi ấy, từ những cuộc đi chơi dưới trăng Sa Kỳthủa nhỏ ấy, mà nguồn thơ Hàn luôn luôn bị quyến dụ bởi tầng cao:Gió nâng khúc hát lên cao vútVần thơ uốn éo lách rừng mây.(Ngủ với trăng).Đó chính là “lý thuyết thơ” trong vũ trụ mới của Hàn Mặc Tử. Theo lờiNguyễn Bá Tín – em trai Hàn Mặc Tử kể lại trong cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi thìtừ những ngày thơ ấu, Trăng đã gắn bó với Hàn Mặc Tử, ông đã từng mải mêngắm Trăng một mình trên bãi cát trắng, bên bờ sông. Trăng không phải là ámảnh của bệnh phong như Trần Thanh Mai và một số người đã nhận định ( ThụyKhuê ). Mà Trăng ở đây là cội nguồn của tuổi thơ ông. Từ đó mà hình thành nênmột hồn thơ qua Trăng, bằng Trăng, viết về Trăng. Xuyên suốt cuộc đời HànMặc Tử là một hình ảnh Trăng. Từ lúc tuổi thơ ấu Trăng đẹp, Trăng tươi, huyềndiệu, lung linh bao nhiêu:Nước hóa thành trăng, trăng ra nướcLụa là ướt đẫm cả trăng thơmNgười trăng ăn vận toàn trăng cả.(Say Trăng)Vui thay cảnh sáng trăngÁi tình bắt đầu căngHoa thơn thì nín lặngHương thơm thì bay lay(Sáng trăng)Ngoài nguồn gốc sâu xa ấy, còn có một lý do cụ thể hơn. Vì bệnh phong hủiđang làm cho thể xác ông “tan rữa” từng ngày, từng đêm, qua từng mùa Trăng.Chính Trăng là người bạn cho ông niềm tin vào cuộc sống tươi đẹp của trần thế.Và cũng chính Trăng – động lực siêu hình đã đưa ông về cõi chết. Sau một thờigian làm ở sở đạc điền, bệnh tình ông bắt đầu chớm nở và ông bị mọi người xalánh. Đây cũng chính là thời gian ông làm thơ nhiều nhất. Nhiều đến nỗi ôngkhông biết mình đã chơi, đã thân thiết với Trăng:

Xem thêm :  Giới thiệu về tác giả nguyễn khuyến

Hàn Mạc Tử Lệ Quyên Official YouTube

Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tin tức
Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục: Tin tức Tại Website Pkmacbook.com